Friday, April 17, 2020

Thi Sĩ Vũ Anh Khanh Và Bài Thơ Hận Tha La. - Phạm Thắng Vũ / Từ Đó Em Buồn Trần Thiện Thanh

22448248_10214375111952513_3379083750016303284_n
(Bài viết này thì Phạm Thắng Vũ (PTV) viết từ tháng 12 năm 2010 nhân nay nghe lại bài hát Hận Tha La nên mới lục trên Net và post nó trở lại trong trang WordPress của mình).
Bạn thân mến; Nếu bạn từng sống ở Sài Gòn và thường có lúc đi rảo mua sách thì chắc phải biết đến con phố sách báo cũ mang tên Đặng Thị Nhu thuộc phường Nguyễn Thái Bình, quận 1-Saigon. Lòng con phố hơi chật vì các quầy kiosk sách báo nằm đối diện, kề sát nhau và chỉ để một lối đi ở chính giữa cho khách (có khi dẫn xe máy đi cùng) ra vào. Một đầu con phố tiếp với đường Ký Con và đầu phố còn lại thông ra đường Calmette. Anh Hữu, một người bạn lớn hơn PTV cả chục tuổi mà nhân trong một lần đi vượt biên chung, đã quen nhau, có một kiosk bán sách ở con phố này và cả nhà dùng nó như một phương tiện mưu sinh sau cuộc đổi đời tháng 4 năm 1975. <!>
 Nghề mua bán sách báo cũ, coi lèng xèng vậy mà kiếm ăn rất ngon chỉ kẹt cái là đọng vốn nhưng khi có khách cần đến thì cầm chắc có lời. Sách báo cũ được mua đi rồi bán lại ngay tại chỗ và chủ kiosk nào cũng có những mối quen trong nghề. Mối đây là người đến tìm mua sách về để họ bán lại và thường họ ở xa đâu đó ngoài miền Trung, thậm chí có mối ở tít tận Hà Nội. Mối cũng là những người có sách do họ lùng mua được rồi mang bán lại cho chủ kiosk. Thỉnh thoảng gặp khách cho địa chỉ mời đến tận nhà để xem sách họ có và muốn bán. Các dịp như vậy, chủ kiosk thường mua được một lúc khá nhiều sách giá trị và tất nhiên, sẽ là một món lời. Anh Hữu vẫn từng đến những chỗ mà khách cho địa chỉ nằm trong nội đô Sài Gòn hay ở Chợ Lớn, vùng Bình Thạnh hoặc khu dân Bắc di cư Gò Vấp. Ngoài những tựa sách quen có tiếng hoặc vì đã từng được khách lùng mua nên biết, còn thường thì anh Hữu vẫn lúng túng mỗi khi cầm quyển sách lạ trong tay. Đó là lý do mà anh hay rủ tôi đi chung cho vui, để có người góp ý với anh về các tựa sách lạ. Có lần, anh rủ tôi cùng đi Tha La.
Tha La, cái tên tôi thường nghe qua các bài hát như Tha La Xóm Đạo, Hận Tha La… và cũng biết nó nằm đâu đó trong vùng Trảng Bàng-Tây Ninh nhưng chưa lần nào có dịp đặt chân đến. Nhiều vùng quê miền Nam có các địa danh thật lạ như Hóc Bà Tó, Chắc Cà Đao, Cạnh Đền, Muồng Luông, Soài Cả Nãi và Tha La… dường như từ gốc Khmer mà ra. Theo địa chỉ đã có, tôi và anh Hữu trực chỉ hướng Tây Bắc đi Hốc Môn rồi vượt qua Củ Chi và đến thành phố Trảng Bàng lúc gần trưa. Từ Trảng Bàng, theo một con đường đất đỏ (cũng về hướng Tây) mà hai bên là các thửa ruộng, rẫy chung với nhà dân hoặc các đám rừng cây lưa thưa, chúng tôi đi về một xã có tên là An Hòa khoảng 6, 7 cây số gì đó thì gặp Tha La. Đây là một xóm nhỏ với những nhà lợp tranh, mái ngói và cả nhà tôn nằm thấp thoáng sau hàng cây ăn trái như mít, xoài, ổi và dừa. Tha La, một miền quê do khung cảnh và cũng vì con đường chính cùng các ngõ nhỏ đều là đường đất đỏ. Mùi rạ, mùi đất bùn cùng mùi lá tre và cả mùi mít chín thơm thoang thoảng trong gió. Có những ngõ nhỏ đan chặt các hàng tầm vông, tre hoặc trúc trông thật mát mắt. Loanh quanh một hồi, chúng tôi tìm được nhà của người có sách muốn bán nằm riêng một ngõ với hai hàng trúc bao thành lối đi mát rượi dẫn vào bên trong. Chúng tôi chạy xe thẳng vào sân của một căn nhà vách ván gỗ xập xệ lợp ngói có chỗ đã bong mất hở cả mè cây đỡ mái. Căn nhà có một bàn thiên chính giữa mặt tiền cùng những cây cúc ngày tím sẫm, hoa vạn thọ vàng chóe chung với bụi mẫu đơn đỏ thắm. Chủ nhà ở phía sau nghe tiếng xe liền ra xem rồi nhận ra anh Hữu, ông mời chúng tôi vào trong và lấy các sách muốn bán ra bày trên bộ ván ngựa xưa cũ. Mới trông qua thấy toàn sách xưa, những quyển mà dân bán sách cũ đang kiếm, anh Hữu chộp ngay các quyển: Kim Cổ Kỳ Quan, Châu Về Hợp Phố, Mai Hoa Dịch Tân Biên, Vạn Huê Lầu, Đông Chu Liệt Quốc, Long Trùng Quyết Sách… và số còn lại (khoảng hai chục quyển) là loại thường nhưng anh Hữu cũng mua hết nói dùng làm sách bày cho có trong kiosk. Theo lời gia chủ, sách vừa bán là do từ gia đình (ông ngoại) để lại từ lâu, nay vì cần tiền đành phải bán. Đồ đạc bài trí trong nhà ngoài các trang thờ bằng gỗ, tủ cẩn ốc xà cừ chưng hình ảnh ông bà, bộ ván ngựa thì còn có các tủ danh mộc đã cũ. Một nếp nhà khá giả xưa còn sót lại đang trong cảnh sa sút. Tôi hỏi thăm gia chủ ít điều về Tha La thì được biết nguyên thủy Tha La tên gốc từ chữ Schla của Khmer có nghĩa là trại hoặc nơi nghỉ mát rồi không biết từ khi nào, người Việt đọc Schla thành Tha La và địa danh này tồn tại cho tới bây giờ. Tha La hiện thời thuộc ấp An Hội của xã An Hòa (có 8 ấp) thuộc huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh và là một xứ đạo Thiên Chúa. Theo ông, từ thời vua Minh Mạng, dân theo đạo trốn chạy, lánh nạn vào đây (khi đó còn là rừng) rồi khai hoang lập ấp, xây dựng cuộc sống để bảo tồn nền đạo cùng niềm tin tâm linh. Ông cũng cho biết, trong Tha La nơi nhộn nhịp-trù phú nhất chính là khu vực dân cư sống chung quanh họ đạo gần ngôi thánh đường Thiên Chúa giáo gọi là xóm đạo (thuộc 2 ấp An Hội 1, An Hội 2). Cũng có một số người theo các tôn giáo khác như đạo Phật, Cao Đài, thờ cúng ông bà… sống ở Tha La. Tôi hỏi thêm về bài hát mang tên Tha La Xóm Đạo, ông liền gật đầu rồi hát vài đoạn ngắn cho tôi cùng anh Hữu nghe như để khắng định và chỉ biết vậy, không hơn.

13495025_850420108397860_1726068069953970236_n
Chia tay với ông, chúng tôi chạy xe lòng vòng trong vùng Tha La để biết thêm. Đến khu xóm đạo nơi đông dân cư nhất rồi vòng qua thánh đường là một nhà thờ vừa phải với tháp chuông cùng hang đá nằm êm ả dưới các bóng cây mát. Sau đó, tôi và anh Hữu dừng xe, nghỉ chân ở một quán nhỏ bán dừa tươi trong khu thị tứ của Tha La (ấp An Phú). Chị bán quán khi nghe tôi hỏi chuyện về Tha La Xóm Đạo, đã mau mắn lấy ra một băng cassette rồi dò tìm mở đúng bài hát đó. Vài khách đang ngồi uống nước trong quán cũng hát theo rành rẽ. Họ là dân ở đây, chắc vậy và họ đang hãnh diện vì có bài hát hát về địa phương mình. Ngay sau ngày 30-4-1975, nhạc của miền Nam VNCH được chính quyền mới gọi bằng cái tên chung là Nhạc Vàng bất kể thể loại nào. Thực ra nhạc vàng (chiếm đa số) là các bài hát về tình yêu đôi lứa, về quê hương hoặc về nỗi niềm riêng tư nào đó… không thôi. Mà nếu vậy, các bài hát thời bây giờ như Lá Diêu Bông, Chị Tôi, Hà Nội Mùa Vắng Những Cơn Mưa, Phượng Hồng, Tình Thôi Xót Xa… cũng là nhạc vàng và đó là lý do tại sao công chúng lại yêu thích loại nhạc này! Một khi bạn đã yêu đã thích nhạc vàng thì mỗi lần nghe nó, bạn sẽ nhớ đến quê hương nếu như bạn đang sống ở nước ngoài. Còn nếu bạn đang ở trong nước, hồi tưởng về tháng ngày hoa mộng cũ, những kỷ niệm (tùy từng người) sẽ lại về trong tâm tưởng bạn. Ngày hôm đó tôi cũng vậy, những lời hát tai đang nghe đã dẫn tôi về khung cảnh xa xưa của Tha La và tự dưng lòng tôi se sắt buồn. Tôi đã là người dân của Tha La xóm đạo.
… Tha La ơi! Xóm Đạo ơi! Còn đâu nữa chiếc áo ngày xưa đành khép kín khoác vào bộ chinh y. Lòng hờn căm một chiều xưa lửa dậy, nghe não nùng chưa? Tha La sầu quốc biến Xóm Đạo chất hận thù! … Đây Tha La đây Xóm Đạo hoang tàn Mây trời vây quanh mầu tang khói lửa, Bao năm qua Tha La còn trơ đó, đoàn người đi giết thù đã hẹn thề từ dạo ấy, Long viễn khách bồi hồi như thương tiếc mùa thu nắng hanh vàng …
Trên đường về, tôi gặp một cụ già cởi trần gầy gò đang gánh một gánh dừa đi về phía quán nước. Cụ già với hàm râu trắng như hình ảnh trong bài thơ. Không biết thời bài thơ Hận Tha La ra đời, khung cảnh khi đó có giống như hiện tại? Vài bụi tre bị chặt trụi lũi bên đường trơ gốc cây mốc trắng và tất cả những mụt măng đã bị chủ gia cắt sớm để bán. Họ cần tiền cho một nhu cầu gấp rút nên không thể chờ măng thành tre được, y như chủ nhân căn nhà mà tôi và anh Hữu vừa ghé vào mua sách cũ gia đình để lại. Tha La là vùng đất lành, mầu mỡ do nguồn nước từ kinh Vàm Trảng dẫn từ sông Vàm Cỏ về tưới mát đất đai ở đây nhưng sao dân cư trong vùng vẫn mang vẻ buồn, hiu quạnh. Tôi cảm thấy… hay Tha La tự nó là như vậy.
Như nhiều bài hát nổi tiếng khác, Tha La Xóm Đạo được phổ từ một bài thơ của một thi sĩ và cũng là một người lính chiến thời chiến tranh Việt-Pháp. Đó là bài thơ Hận Tha La và tác giả là Vũ Anh Khanh. Tới tận bây giờ vẫn ít người biết về thân thế cùng số phận của nhà thơ Vũ Anh Khanh dù có thể họ vẫn hát bài hát Tha La Xóm Đạo. Vũ Anh Khanh có tên là Võ Anh Khanh nhưng cũng có người nói ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926 quê quán ở Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Ông sống ở Sài Gòn, có thơ-văn đăng trên các trang báo từ những năm cuối thập niên 1940. Nước Việt trong giai đoạn này, bị xáo trộn bởi các ảnh hưởng chính trị, thời thế quốc tế và từ các vận động của các tổ chức-đoàn thể trong các địa phương. Giai đoạn này cũng là sự thức tỉnh tự thân của giới thanh niên-trí thức trẻ (trong đó có các văn nghệ sĩ), đưa đến cuộc đấu tranh chống Pháp năm 1945. Người ra chiến khu, vô bưng hoặc về lại thành phố trong tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và được một làn sương lãng mạn-thi vị nhưng hào hùng phủ lên. Người yêu nước, khởi đầu gia nhập hàng ngũ kháng chiến chỉ một ý nghĩ là giặc Pháp tiếp tục muốn đặt lại ách thống trị thì phải chống chứ chẳng hề vì lý tưởng đại đồng, CS gì và Vũ Anh Khanh là một người trong số họ. Là một chiến sĩ, đi qua nhiều vùng đất nước, mắt ông đã thấy nhiều cảnh chết chóc, nhà cháy, tang thương của xóm làng sau một trận chiến. Và, không biết trong một lần nào đó, ông đã có dịp dừng chân tại Tha La rồi khung cảnh của một xóm đạo thời ly loạn… đã gây một xúc động ghê gớm nơi ông, khiến ông sáng tác ra bài thơ (chúng ta hãy nghĩ vậy).
Hận Tha La là một bài thơ dài kiểu hợp thể. Đoạn mở đầu là Ngũ Ngôn rồi chuyển sang Tám Chữ, sau đó thành Kịch Thơ (đoạn giữa) và kết thúc bằng hai câu Thất Ngôn. Một bài thơ hay, có hồi có cảnh. Tiết tấu thay đổi với khung cảnh và khung cảnh thay đổi với các nhân vật trong bài thơ.
Xin mời quý bạn đọc, đọc bài thơ Hận Tha La
HẬN THA LA
Đây Tha La xóm đạo Có trái ngọt cây lành Tôi về thăm một dạo Giữa mùa nắng vàng hanh. Ngậm ngùi Tha La bảo: – Đây rừng xanh rừng xanh Bụi đùn quanh ngõ vắng, Khói đùn quanh nóc tranh. Gió đùn quanh mây trắng, Và lửa loạn xây thành. – Viễn khách ơi! Hãy dừng chân cho hỏi, Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng. Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng, Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá, Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ. Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ! Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ? Ai đưa đón? – Xin thưa, tôi lạc bước! Không là duyên, không là bèo kiếp trước, Không có ai chờ, ai đón tôi đâu! Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu, Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ, Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió, Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng. Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng. Tha La hỏi: – Khách buồn nơi đây vắng? Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng! – Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn? Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn, Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít. Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch: Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La! Bao người đi thề chẳng trở lại nhà. Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn! Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán, Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa, Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa, Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh. Khách rùng mình, ngẩn ngơ lòng hiu quạnh. – Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La! Đây mênh mông xóm đạo với rừng già. Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách. Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch, Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng. – Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng? Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng, Nhẹ bảo chàng: ” Em chẳng biết gì ư? Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù! Người nước Việt ra đi vì nước Việt. Tha La vắng vì Tha La đã biết, Thương giống nòi đau đất nước lầm than. “ Trời xa xanh, mây trắng ngoẹn ngàn hàng, Ngày hiu quạnh. Ờ.. ơ.. hơ tiếng hát. Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc. Tiếng hát rằng: Tha La giận mùa thu, Tha La hận quốc thù, Tha La hờn quốc biến, Tha La buồn tiếng kiếm, Não nùng chưa! Tha La nguyện hy sinh. Ơ.. ơ.. hơ.. có một đám chiên lành. Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy. Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy: Lạy Đức Thánh Cha! Lạy Đức Thánh Mẹ! Lạy Đức Thánh Thần! Chúng con xin về cõi tục để làm dân… Rồi… cởi trả áo tu. Rồi… xếp kinh cầu nguyện. Rồi… nhẹ bước trở về trần… Viễn khách ơi! Viễn khách ơi! Người hãy dừng chân. Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé! Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ. Trời Tha La vần vũ đám mây tan. Vui gì đâu mà tâm sự? Buồn làm chi mà bẽ bàng? Ơ… ơ… hơ… ờ… ơ… hơ… tiếng hát Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc. Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi! Tha La thương người viễn khách đi thôi! Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ, Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay… Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này: – Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé! Hãy về thăm xóm đạo Có trái ngọt cây lành. Tha La dâng ngàn hoa gạo, Và suối mát rừng xanh. Xem đám chiên lành thương áo trắng. Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh.
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông gồm truyện dài như Nửa Bồ Xương Khô, Bạc Xíu Lìn, Cây Ná Trắc và truyện ngắn như Ngũ Tử Tư, Đầm Ô Rô, Sông Máu, Bên Kia Sông, Một Đêm Trăng… Các tác phẩm của Vũ Anh Khanh rất có giá trị, tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp ở Nam Bộ. Tuy vậy, hầu như nhiều người chỉ biết chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ Hận Tha La.
13427935_850419908397880_7970536679815729006_n
Năm 1954, Hiệp Định Geneva về ngưng chiến được thực hiện, chia cắt nước Việt làm hai, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Người dân miền Bắc (khoảng gần 1 triệu người) ồ ạt di cư vô miền Nam thì đổi lại cán bộ-chiến sĩ thuộc phe Cộng Sản ở trong miền Nam được chuyển ra miền Bắc (gọi tên chung là tập kết). Có 3 khu vực tập kết là Hàm Tân-Xuyên Mộc, Đồng Tháp Mười, Cà Mau và không biết Vũ Anh Khanh tập kết tại địa điểm nào kể trên. Ông ra Bắc rồi đi dự Hội Nghị Các Nhà Văn Á Châu (HNCNVAC) tại New Dehli (Tân Đề Li) thuộc nước Ấn Độ trong tháng 12 năm 1956. Tham dự hội nghị là phái đoàn của 16 quốc gia gồm 14 quốc gia Cộng Sản và chỉ 2 quốc gia Tự Do là Ấn Độ và miền Nam Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Vũ Anh Khanh có mặt trong phái đoàn miền Bắc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chung với nhà văn Nguyễn Công Hoan (tác giả Bước Đường Cùng, Đống Rác Cũ…). Lý do Vũ Anh Khanh được nhà cầm quyền miền Bắc khi đó cử đi dự đại hội HNCNVAC là vì công an không thấy ông trong cuộc tụ tập ở khu Trường Tiền-Hà Nội để phản đối sự chỉ huy văn nghệ của Đảng (nhân có phong trào Trăm Hoa Đua Nở-Trăm Nhà Đua Tiếng). Cuộc tụ tập đó do nhóm dân tập kết miền Nam phản đối các lãnh đạo CS Hà Nội. Sau khi dự đại hội HNCNVAC về, có lẽ đã thấy bộ mặt thật của chế độ Cộng Sản tại miền Bắc nên khi Vũ Anh Khanh có giấy đi công tác (cách vài tháng sau) ở tỉnh lỵ Vĩnh Yên (phía Bắc Hà Nội) và hình như thi sĩ đã sửa giấy công tác đó từ Vĩnh Yên thành Vĩnh Linh (một đặc khu tương đương cấp tỉnh), địa danh gần sông Bến Hải. Vũ Anh Khanh đến Vĩnh Linh và ông đã mạo hiểm vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải nhưng không thoát. Một mũi tên độc đã cắm vào người ông, lôi ông chìm xuống đáy và chết mất xác.
342aedf1c0d44c4b8b7f2e1602ae6da2 Sông Bến Hải (giới tuyến chia cắt hai miền Nam-Bắc) thuộc thôn Hiền Lương (cầu trên sông mang cùng tên) xã Vĩnh Thành huyện Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị. Giai đoạn Vũ Anh Khanh đến Vĩnh Linh thì ở phía bờ Bắc (do chính quyền miền Bắc VNDCCH kiểm soát) có 2 đồn công an đóng tại Hiền Lương và Cửa Tùng. Đồn Hiền Lương nằm sát bên cầu, đồn Cửa Tùng đóng ở bãi biển xã Vĩnh Quang. Đồn nào (theo quy định của bản Hiệp Định Geneva) chỉ có 16 nhân viên nhưng con số thực tế nhiều hơn. Vả lại, vì là giới tuyến trực diện với vùng đất phía Nam của chính quyền miền Nam VNCH nên dân chúng sinh sống sát bờ sông Bến Hải thực tế là các gia đình công an giả trang. Vũ Anh Khanh đến đây nhằm tìm dịp để vượt tuyến đào thoát vào miền Nam VNCH nhưng ông không ngờ trước đó (ngày 4 tháng 10 năm 1956), đã có 3 người dân miền Bắc liều mạng bơi qua sông và họ thành công. Chính quyền miền Nam VNCH đã không giữ kín việc này khi họ tổ chức họp báo để thông tin và miền Bắc VNDCCH biết được. Công an CS tại Vĩnh Linh đã họp và quyết không để trường hợp tương tự tái diễn. Họ đã kín đáo canh phòng nghiêm nhặt dù bên ngoài vẫn để các sinh hoạt dân dã bình thường và Vũ Anh Khanh đã mắc bẫy. Có lẽ vào ban ngày ông đã tìm cách bơi sang sông (chỉ rộng hơn 100 m) rồi bị công an phát giác và các mũi tên độc (được bắn ra từ nỏ lớn) của công an đã kết liễu đời ông. Việc dùng tên tẩm thuốc độc (thay cho súng) là cách mà công an CS muốn tránh bị Ban Liên Hợp Quốc Tế Giám Sát-Kiểm Soát việc áp dụng Hiệp Định (có mặt tại đây) phát giác việc họ truy sát dân lành vượt tuyến (Có tiếng súng nổ thì họ sẽ cho điều tra). Cái chết của Vũ Anh Khanh, có thể do công an CS đã thông báo cho dân chúng biết như một răn đe nên kể từ sau đó (tháng 4 năm 1957), không còn người vượt tuyến vào miền Nam bằng cách bơi sang sông Bến Hải nữa.
13510800_850420101731194_5257537987095032620_n
162fc43e3b704146936030a694436c7e
Là một người yêu nước tuy có lúc sai lầm khi đứng bên phía Cộng Sản, sau cùng Vũ Anh Khanh đã đào tị nhưng không gặp may. Chính quyền Cộng Sản đã cố tình gạt bỏ tên ông trong văn học sử mà ngay cả chính quyền miền Nam VNCH cũng đối xử tương tự với ông khi gạt bỏ tên trong chương trình giáo dục phổ thông cùng cấm lưu hành các sách in của ông. Họ xếp Vũ Anh Khanh là văn-thi sĩ Cộng Sản (do đã tập kết ra miền Bắc VNDCCH năm 1954 và dự đại hội HNCNVAC tháng 12 năm 1956) và đó là một đối xử bất công, ít nhất đối với cá nhân ông, một văn-thi sĩ nước Việt (xếp theo thứ bậc có thể ông còn trên cả các văn-thi sĩ Lý Văn Sâm, Hồ Hữu Tường, Phi Vân, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Sơn Khanh…).
Tha_La_xom_dao_(Dzung_Chinh_-_Vu_Anh_Khanh)_outside  

Bài thơ Hận Tha La được các nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ thành bài hát (năm 1964) mang tên Tha La Xóm Đạo, nhạc sĩ Sơn Thảo’S phổ thành bài hát (năm 1965) mang tên Hận Tha La và nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành bài hát (năm 1965) mang tên Vĩnh Biệt Tha La.

Câu chuyện có thật trong bài hát “Từ Đó Em Buồn” của Trần Thiện Thanh



Từ Đó Em Buồn là bài nhạc vàng nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, được biết đến qua tiếng hát Thanh Lan trước năm 1975. Tuy nhiên hoàn cảnh sáng tác bài hát này là câu chuyện có thực ít người biết và có những điều thú vị đằng sau đó.

Trước 1975, có 2 ca sĩ hát bài Từ Đó Em Buồn là Thanh Lan và Phương Dung. Riêng Thanh Lan có đến ba bản thu âm khác nhau, với phần lời được hát khác nhau ở 1 câu mà ít người để ý tới.
Về hoàn cảnh sáng tác bài này, sinh thời nhạc sĩ Trần Thiện Thanh có kể lại như sau: Hồi xưa, ông học Trung học ở Phan Thiết. Ông có cô bạn cùng lớp. Cô này có bà chị rất xinh đẹp. Giai nhân thành phố biển có người yêu tập kết ra Bắc vào năm 1954. Chàng hứa hẹn hai năm sau sẽ về cưới nàng làm vợ. Nàng chờ đợi người tình suốt 10 năm, nhưng bóng hình người yêu vẫn biệt vô âm tín. Một hôm, nàng nhận được tin khủng khiếp, anh ta đã bỏ mình trong rừng sâu núi thẳm. Tin tức như sét đánh bên tai, nàng đau khổ vô cùng. Bao năm qua, người đẹp thương yêu, nhung nhớ, đợi chờ người tình hồi hương. Trong phút chốc, hy vọng, mong đợi mòn mỏi của má hồng đã trở thành mây khói…
Khi kể xong câu chuyện, Trần Thiện Thanh cảm thán: Liệu tình yêu trai gái kia, liệu nỗi buồn của người đẹp, liệu sự chờ đợi của giai nhân với anh chàng tập kết kia, có đặt đúng chỗ hay không?
Xưa nay ai cũng nghe câu nói quen thuộc là “tình yêu là mù quáng”. Có những thứ thuộc về phạm trù tình yêu không thể giải nghĩa một cách rõ ràng. Có lẽ là một khi con tim đã rung động thì người trong cuộc khó mà tỉnh táo để suy nghĩ được xem là có đặt đúng chỗ hay không được.
Theo câu chuyện kể của tác giả Trần Thiện Thanh, người trai trong bài hát là một người đi tập kết. Trong lời bài hát có một câu mà Trần Thiện Thanh viết thành 2 lời khác nhau, với hai nghĩa khác nhau hoàn toàn (xem hình bên dưới):



 

Lời 1: “tin anh gục c.h.ế.t giữa chốn nông trường xa, cho tơ duyên bẽ bàng”.
“Nông trường” là từ ngữ đặc trưng của vùng miền Bắc trước 75 chứ hoàn toàn không có ở miền Nam trước 75. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và kiểm soát hoàn toàn miền Bắc từ tay Pháp, chính phủ VNDCCH đã tổ chức hệ thống các nông trường để khai thác các vùng đất hoang vào mục đích nông nghiệp. Vì vậy Trần Thiện Thanh viết: tin anh gục c.h.ế.t giữa nông trường xa, nghĩa là người trai đã gục ngã trên xứ người.
Lời 2: tin anh gục c.h.ế.t giữa lúc băng dòng sông vô đây xây ân tình.
Với lời nhạc này, ai cũng hiểu là anh đã băng dòng sông Bến Hải để xây lại ân tình, tương tự một câu hát của nhạc sĩ Xuân Tiên trong bài hát “Khúc Hát Ân Tình”: Người từ là từ phương Bắc đã qua dòng sông, sông dài tìm đến phương này một nhà thân ái.




 Phương Dung - Khúc Hát Ân Tình 

Như vậy, ý nghĩa của hai câu hát này, theo tác giả, là người trai trong bài hát đã từ giã người yêu ở miền Nam để tập kết ra Bắc, nhưng có thể sau đó anh thấy mình có chọn lựa sai lầm nên đã trốn quay lại phương nam bằng cách vượt sông Bến Hải, về “xây lại ân tình”, nhưng rồi anh đã ngã xuống ở nơi đó.
Trường hợp này trùng khớp với cuộc đời của nhà thơ Vũ Anh Khanh (tác giả của bài thơ Tha La Xóm Đạo

Hoàng Oanh | Tha La Xóm Đạo | Dzũng Chinh 

đã được nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ nhạc thành bài hát nổi tiếng). Vũ Anh Khanh quê ở Phan Thiết (cùng quê với Trần Thiện Thanh), tham gia kháng chiến chống Pháp, rồi tập kết ra Bắc. Tuy nhiên sau đó ông nhanh chóng đổi ý, nên quay trở lại băng qua dòng Bến Hải để rồi bỏ mạng oan uổng nơi đó.
Từ những dữ kiện chắp nối này, người viết suy đoán, rất có thể người trai trong bài hát này chính là nhà thơ sáng tác nên Tha La Xóm Đạo là Vũ Anh Khanh, với sự trùng lắp dữ kiện một cách đáng ngạc nhiên như sau:

  • Vũ Anh Khanh và người con gái trong bài hát đều là người ở Phan Thiết
  • Vũ Anh Khanh tập kết ra Bắc năm 1954
  • Theo lời bài hát, người trai hứa là: “đếm tròn hai mùa Xuân sẽ về nối lời thề…” Theo tiểu sử của nhà thơ Vũ Anh Khanh, thì cũng đúng 2 năm sau khi ra đi, đến năm 1956, ông đã tìm cách quay lại miền Nam nhưng thất bại.
  • Mười năm sau đó (Đông qua hè tới thấm thoát đã mười thu không tin thư đưa về...), người con gái ở quê nhà Phan Thiết mới nhận được tin người yêu đã không còn nữa. Hoàn cảnh đất nước lúc đó là hai nơi, có khi mười năm hoặc thậm chí cả đời cũng không nhận được tin về nhau. Có nhiều người con gái thời đó, cả ở Nam lẫn Bắc, mỏi mòn xuân xanh để chờ tin người yêu, hoặc tin chồng để rồi mãi mãi không thể gặp lại.
Việc cho rằng người con trai trong bài Từ Đó Em Buồn là Vũ Anh Khanh chỉ là sự võ đoán của người viết, hoàn toàn có thể không phải. Tuy nhiên NẾU người trai trong bài hát không phải là Vũ Anh Khanh, thì chắc chắn là Trần Thiện Thanh cũng đã lấy cảm hứng thêm câu chuyện về cuộc đời Vũ Anh Khanh để đưa vào bài hát. Vì hai người là đồng hương, có quen biết nhau, nên có thể Trần Thiện Thanh đã lồng câu chuyện về người giai nhân đất Phan cùng câu chuyện đời bi kịch của Vũ Anh Khanh để viết thành một ca khúc bất hủ.
Nói trở lại về các bản thu âm trước 1975 của Thanh Lan hát bài Từ Đó Em Buồn, trong 3 bản thu âm, chỉ có 1 bản (thu trong băng nhạc “Thanh Thúy đặc biệt”) là ca sĩ Thanh Lan hát lời 1:



Từ biệt nhau đi giữa mùa trăng xẻ đôi, lúc tình mới thành lời
Trông nhau lần cuối, nước mắt tuôn mặn môi, nước mắt chia đôi đời
Bóng anh khuất sau đồi, lúc mây tím giăng trời
Lúc giông tố tơi bời, lúc đường đời ngăn đôi
Tình mình chia phôi nhưng tình đầu làm sao với
Nên từ đó em buồn
Tạ từ anh hứa đếm tròn hai mùa Xuân sẽ về nối lời thề
Xuân qua hè tới, thấm thoát đã mười thu không tin thư đưa về
Nhớ anh, nhớ vô vàn, nhớ anh nhớ muôn ngàn
Nhớ anh đã bao lần mắt nhòe lệ đêm mơ
Lệ nhòa đêm mơ, trông đợi người về lau khô
Nên từ đó em buồn
Từ đó đâu còn nữa, đêm hẹn xưa tha thiết gọi tên nhau
Từ đó đâu còn nữa, trăng ngày xưa lưu luyến soi đôi đầu
Gương xưa còn đó nhưng bóng người nào thấy đâu
Áo xưa còn đó nhưng mùi hương phai nhạt rồi
Từ đó, nghe trong lòng, nghe trong lòng mưa gió từng đêm
Vào một đêm sương có người trai hồi hương, báo một tin thật buồn
Tin anh gục c.h.ết giữa chốn nông trường xa cho tơ duyên bẽ bàng
Phút giây cuối trong đời, vẫn không nói nên lời
Vẫn xa cách phương trời, uất hờn nghẹn tim côi
Trọn đời ngăn đôi để một người sầu lên môi
Nên từ đó em buồn


 



 



 



Đông Kha

Thi Sĩ Vũ Anh Khanh Và Bài Thơ Hận Tha La.


Nếu bạn từng sống ở Sài Gòn và thường có lúc đi rảo mua sách thì chắc phải biết đến con phố sách báo cũ mang tên Đặng Thị Nhu thuộc phường Nguyễn Thái Bình, quận 1-Saigon. Lòng con phố hơi chật vì các quầy kiosk sách báo nằm đối diện, kề sát nhau và chỉ để một lối đi ở chính giữa cho khách (có khi dẫn xe máy đi cùng) ra vào. Một đầu con phố tiếp với đường Ký Con và đầu phố còn lại thông ra đường Calmette. Anh Hữu, một người bạn lớn hơn PTV cả chục tuổi mà nhân trong một lần đi vượt biên chung, đã quen nhau, có một kiosk bán sách ở con phố này và cả nhà dùng nó như một phương tiện mưu sinh sau cuộc đổi đời tháng 4 năm 1975. Nghề mua bán sách báo cũ, coi lèng xèng vậy mà kiếm ăn rất ngon chỉ kẹt cái là đọng vốn nhưng khi có khách cần đến thì cầm chắc có lời. Sách báo cũ được mua đi rồi bán lại ngay tại chỗ và chủ kiosk nào cũng có những mối quen trong nghề. Mối đây là người đến tìm mua sách về để họ bán lại và thường họ ở xa đâu đó ngoài miền Trung, thậm chí có mối ở tít tận Hà Nội. Mối cũng là những người có sách do họ lùng mua được rồi mang bán lại cho chủ kiosk. Thỉnh thoảng gặp khách cho địa chỉ mời đến tận nhà để xem sách họ có và muốn bán. Các dịp như vậy, chủ kiosk thường mua được một lúc khá nhiều sách giá trị và tất nhiên, sẽ là một món lời. Anh Hữu vẫn từng đến những chỗ mà khách cho địa chỉ nằm trong nội đô Sài Gòn hay ở Chợ Lớn, vùng Bình Thạnh hoặc khu dân Bắc di cư Gò Vấp. Ngoài những tựa sách quen có tiếng hoặc vì đã từng được khách lùng mua nên biết, còn thường thì anh Hữu vẫn lúng túng mỗi khi cầm quyển sách lạ trong tay. Đó là lý do mà anh hay rủ tôi đi chung cho vui, để có người góp ý với anh về các tựa sách lạ. Có lần, anh rủ tôi cùng đi Tha La.
Tha La, cái tên tôi thường nghe qua các bài hát như Tha La Xóm Đạo, Hận Tha La… và cũng biết nó nằm đâu đó trong vùng Trảng Bàng-Tây Ninh nhưng chưa lần nào có dịp đặt chân đến. Nhiều vùng quê miền Nam có các địa danh thật lạ như Hóc Bà Tó, Chắc Cà Đao, Muồng Luông, Soài Cả Nãi và Tha La… dường như từ gốc Khmer mà ra. Theo địa chỉ đã có, tôi và anh Hữu trực chỉ hướng Tây Bắc đi Hốc Môn rồi vượt qua Củ Chi và đến thành phố Trảng Bàng lúc gần trưa. Từ Trảng Bàng, theo một con đường đất đỏ (cũng về hướng Tây) mà hai bên là các thửa ruộng, rẫy chung với nhà dân hoặc các đám rừng cây lưa thưa, chúng tôi đi về một xã có tên là An Hòa khoảng 6, 7 cây số gì đó thì gặp Tha La. Đây là một xóm nhỏ với những nhà lợp tranh, mái ngói và cả nhà tôn nằm thấp thoáng sau hàng cây ăn trái như mít, xoài, ổi và dừa. Tha La, một miền quê do khung cảnh và cũng vì con đường chính cùng các ngõ nhỏ đều là đường đất đỏ. Mùi rạ, mùi đất bùn cùng mùi lá tre và cả mùi mít chín thơm thoang thoảng trong gió. Có những ngõ nhỏ đan chặt các hàng tầm vông, tre hoặc trúc trông thật mát mắt. Loanh quanh một hồi, chúng tôi tìm được nhà của người có sách muốn bán nằm riêng một ngõ với hai hàng trúc bao thành lối đi mát rượi dẫn vào bên trong. Chúng tôi chạy xe thẳng vào sân của một căn nhà vách ván gỗ xập xệ lợp ngói có chỗ đã bong mất hở cả mè cây đỡ mái. Căn nhà có một bàn thiên chính giữa mặt tiền cùng những cây cúc ngày tím sẫm, hoa vạn thọ vàng chóe chung với bụi mẫu đơn đỏ thắm. Chủ nhà ở phía sau nghe tiếng động liền ra xem rồi nhận ra anh Hữu, ông mời chúng tôi vào trong và lấy các sách muốn bán ra bày trên bộ ván ngựa xưa cũ. Mới trông qua thấy toàn sách xưa, những quyển mà dân bán sách cũ đang kiếm, anh Hữu chộp ngay các quyển: Kim Cổ Kỳ Quan, Châu Về Hợp Phố, Mai Hoa Dịch Tân Biên, Vạn Huê Lầu, Đông Chu Liệt Quốc, Long Trùng Quyết Sách… và số còn lại (khoảng hai chục quyển) là loại thường nhưng anh Hữu cũng mua hết nói dùng làm sách bày cho có trong kiosk. Theo lời gia chủ, sách vừa bán là do từ gia đình (ông ngoại) để lại từ lâu, nay vì cần tiền đành phải bán. Đồ đạc bài trí trong nhà ngoài các trang thờ bằng gỗ, tủ cẩn ốc xà cừ chưng hình ảnh ông bà, bộ ván ngựa thì còn có các tủ danh mộc đã cũ. Một nếp nhà khá giả xưa còn sót lại đang trong cảnh sa sút. Tôi hỏi thăm gia chủ ít điều về Tha La thì được biết nguyên thủy Tha La tên gốc từ chữ Schla của Khmer có nghĩa là trại hoặc nơi nghỉ mát rồi không biết từ khi nào, người Việt đọc Schla thành Tha La và địa danh này tồn tại cho tới bây giờ. Tha La hiện thuộc ấp An Hội của xã An Hòa (có 8 ấp) thuộc Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh và là một xứ đạo Thiên Chúa. Theo ông, từ thời vua Minh Mạng, dân theo đạo trốn chạy, lánh nạn vào đây (khi đó còn là rừng) rồi khai hoang lập ấp, xây dựng cuộc sống để bảo tồn nền đạo cùng niềm tin tâm linh. Ông cũng cho biết, trong Tha La nơi nhộn nhịp-trù phú nhất chính là khu vực dân cư sống chung quanh họ đạo gần ngôi thánh đường Thiên Chúa giáo. Cũng có một số người theo các tôn giáo khác như đạo Phật, thờ cúng ông bà… sống ở Tha La. Tôi hỏi thêm về bài hát mang tên Tha La Xóm Đạo, ông liền gật đầu rồi hát vài đoạn ngắn cho tôi cùng anh Hữu nghe như để khắng định và chỉ biết vậy, không hơn.
Chia tay với ông, chúng tôi chạy xe lòng vòng trong Tha La để biết thêm. Đến khu xóm đạo nơi đông dân cư nhất rồi vòng qua thánh đường là một nhà thờ vừa phải với tháp chuông cùng hang đá nằm êm ả dưới các bóng cây mát. Sau đó, tôi và anh Hữu dừng xe, nghỉ chân ở một quán nhỏ bán dừa tươi. Chị bán quán khi nghe tôi hỏi chuyện về Tha La Xóm Đạo, đã mau mắn lấy ra một băng cassette rồi dò tìm mở đúng bài hát đó. Vài khách đang ngồi uống nước trong quán cũng hát theo rành rẽ. Họ là dân ở đây, chắc vậy và họ đang hãnh diện vì có bài hát hát về địa phương mình. Ngay sau ngày 30-4, nhạc của miền Nam VNCH được chính quyền mới gọi bằng cái tên chung là Nhạc Vàng bất kể thể loại nào. Thực ra nhạc vàng (chiếm đa số) là các bài hát về tình yêu đôi lứa, về quê hương hoặc về nỗi niềm riêng tư nào đó… không thôi. Mà nếu vậy, các bài hát thời bây giờ như Lá Diêu Bông, Chị Tôi, Hà Nội Mùa Vắng Những Cơn Mưa, Phượng Hồng, Tình Thôi Xót Xa… cũng là nhạc vàng và đó là lý do tại sao công chúng lại yêu thích loại nhạc này! Một khi bạn đã yêu đã thích nhạc vàng thì mỗi lần nghe nó, bạn sẽ nhớ đến quê hương nếu như bạn đang sống ở nước ngoài. Còn nếu bạn đang ở trong nước, hồi tưởng về tháng ngày hoa mộng cũ, những kỷ niệm (tùy từng người) sẽ lại về trong tâm tưởng bạn. Ngày hôm đó tôi cũng vậy, những lời hát tai đang nghe đã dẫn tôi về khung cảnh xa xưa của Tha La và tự dưng lòng tôi se sắt buồn. Tôi đã là người dân của Tha La xóm đạo.
… Tha La ơi! Xóm Đạo ơi! Còn đâu nữa chiếc áo ngày xưa
đành khép kín khoác vào bộ chinh y. Lòng hờn căm một chiều
xưa lửa dậy, nghe não nùng chưa? Tha La sầu quốc biến
Xóm Đạo chất hận thù!
… Đây Tha La đây Xóm Đạo hoang tàn
Mây trời vây quanh mầu tang khói lửa,
Bao năm qua Tha La còn trơ đó, đoàn người
đi giết thù đã hẹn thề từ dạo ấy, Long viễn
khách bồi hồi như thương tiếc mùa thu
nắng hanh vàng …
Trên đường về, tôi gặp một cụ già cởi trần gầy gò đang gánh một gánh dừa đi về phía quán nước. Cụ già với hàm râu trắng như hình ảnh trong bài thơ. Không biết thời bài thơ Hận Tha La ra đời, khung cảnh khi đó có giống như hiện tại? Vài bụi tre bị chặt trụi lũi bên đường trơ gốc cây mốc trắng và tất cả những mụt măng đã bị chủ gia cắt sớm để bán. Họ cần tiền cho một nhu cầu gấp rút nên không thể chờ măng thành tre được, y như chủ nhân căn nhà mà tôi và anh Hữu vừa ghé vào mua sách cũ gia đình để lại. Tha La là vùng đất lành, mầu mỡ do nguồn nước từ kinh Vàm Trảng dẫn từ sông Vàm Cỏ về tưới mát đất đai ở đây nhưng sao dân cư trong vùng vẫn mang vẻ buồn, hiu quạnh. Tôi cảm thấy… hay Tha La tự nó là như vậy.
Như nhiều bài hát nổi tiếng khác, Tha La Xóm Đạo được phổ từ một bài thơ của một thi sĩ và cũng là một người lính chiến thời chiến tranh Việt-Pháp. Đó là bài thơ Hận Tha La và tác giả là Vũ Anh Khanh. Tới tận bây giờ vẫn ít người biết về thân thế cùng số phận của nhà thơ Vũ Anh Khanh dù có thể họ vẫn hát bài hát Tha La Xóm Đạo. Vũ Anh Khanh có tên là Võ Anh Khanh nhưng cũng có người nói ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926 quê quán ở Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận. Ông sống ở Sài Gòn, có thơ-văn đăng trên các trang báo từ những năm cuối thập niên 1940. Nước Việt trong giai đoạn này, bị xáo trộn bởi các ảnh hưởng chính trị, thời thế quốc tế và từ các vận động của các tổ chức-đoàn thể trong các địa phương. Giai đoạn này cũng là sự thức tỉnh tự thân của giới thanh niên-trí thức trẻ (trong đó có các văn nghệ sĩ), đưa đến cuộc đấu tranh chống Pháp năm 1945. Người ra chiến khu, vô bưng hoặc về lại thành phố trong tinh thần ái quốc chống ngoại xâm và được một làn sương lãng mạn-thi vị nhưng hào hùng phủ lên. Người yêu nước, khởi đầu gia nhập hàng ngũ kháng chiến chỉ một ý nghĩ là giặc Pháp tiếp tục muốn đặt lại ách thống trị thì phải chống chứ chẳng hề vì lý tưởng đại đồng, CS gì và Vũ Anh Khanh là một người trong số họ. Là một chiến sĩ, đi qua nhiều vùng đất nước, mắt ông đã thấy nhiều cảnh chết chóc, nhà cháy, tang thương của xóm làng sau một trận chiến. Và, không biết trong một lần nào đó, ông đã có dịp dừng chân tại Tha La rồi khung cảnh của một xóm đạo thời ly loạn… đã gây một xúc động ghê gớm nơi ông, khiến ông sáng tác ra bài thơ (chúng ta hãy nghĩ vậy).
Hận Tha La là một bài thơ dài kiểu hợp thể. Đoạn mở đầu là Ngũ Ngôn rồi chuyển sang Tám Chữ, sau đó thành Kịch Thơ (đoạn giữa) và kết thúc bằng hai câu Thất Ngôn. Một bài thơ hay, có hồi có cảnh. Tiết tấu thay đổi với khung cảnh và khung cảnh thay đổi với các nhân vật trong bài thơ.
Xin mời quý bạn đọc, đọc bài thơ Hận Tha La
HẬN THA LA
Đây Tha La xóm đạo
Có trái ngọt cây lành
Tôi về thăm một dạo
Giữa mùa nắng vàng hanh.
Ngậm ngùi Tha La bảo:
– Đây rừng xanh rừng xanh
Bụi đùn quanh ngõ vắng,
Khói đùn quanh nóc tranh.
Gió đùn quanh mây trắng,
Và lửa loạn xây thành.
– Viễn khách ơi!
Hãy dừng chân cho hỏi,
Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng.
Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng,
Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá,
Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ.
Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ?
Ai đưa đón?
– Xin thưa, tôi lạc bước!
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ,
Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió,
Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng.
Tha La hỏi:
– Khách buồn nơi đây vắng?
Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!
– Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn,
Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít.
Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La!
Bao người đi thề chẳng trở lại nhà.
Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán,
Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa,
Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa,
Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh.
Khách rùng mình, ngẩn ngơ lòng hiu quạnh.
– Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
Đây mênh mông xóm đạo với rừng già.
Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch,
Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng.
– Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
Nhẹ bảo chàng:
” Em chẳng biết gì ư?
Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!
Người nước Việt ra đi vì nước Việt.
Tha La vắng vì Tha La đã biết,
Thương giống nòi đau đất nước lầm than. ”
Trời xa xanh, mây trắng ngoẹn ngàn hàng,
Ngày hiu quạnh. Ờ.. ơ.. hơ tiếng hát.
Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc.
Tiếng hát rằng:
Tha La giận mùa thu,
Tha La hận quốc thù,
Tha La hờn quốc biến,
Tha La buồn tiếng kiếm,
Não nùng chưa!
Tha La nguyện hy sinh.
Ơ.. ơ.. hơ.. có một đám chiên lành.
Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy.
Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:
Lạy Đức Thánh Cha!
Lạy Đức Thánh Mẹ!
Lạy Đức Thánh Thần!
Chúng con xin về cõi tục để làm dân…
Rồi… cởi trả áo tu.
Rồi… xếp kinh cầu nguyện.
Rồi… nhẹ bước trở về trần…
Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
Người hãy dừng chân.
Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ.
Trời Tha La vần vũ đám mây tan.
Vui gì đâu mà tâm sự?
Buồn làm chi mà bẽ bàng?
Ơ… ơ… hơ… ờ… ơ… hơ… tiếng hát
Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc.
Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
Tha La thương người viễn khách đi thôi!
Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ,
Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay…
Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
– Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
Hãy về thăm xóm đạo
Có trái ngọt cây lành.
Tha La dâng ngàn hoa gạo,
Và suối mát rừng xanh.
Xem đám chiên lành thương áo trắng.
Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh.
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950, Vũ Anh Khanh là một cây bút chuyên viết truyện ngắn và tiểu thuyết. Tác phẩm của ông gồm truyện dài như Nửa Bồ Xương Khô, Bạc Xíu Lìn, Cây Ná Trắc và truyện ngắn như Ngũ Tử Tư, Đầm Ô Rô, Sông Máu, Bên Kia Sông, Một Đêm Trăng… Các tác phẩm của Vũ Anh Khanh rất có giá trị, tiêu biểu cho dòng văn chương thời kỳ kháng chiến chống Thực dân Pháp ở Nam Bộ. Tuy vậy, hầu như nhiều người chỉ biết chỉ nhớ đến Vũ Anh Khanh với bài thơ Hận Tha La.
Năm 1954, Hiệp Định Geneva về ngưng chiến được thực hiện, chia cắt nước Việt làm hai, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Người dân miền Bắc (khoảng gần 1 triệu người) ồ ạt di cư vô miền Nam thì đổi lại cán bộ-chiến sĩ thuộc phe CS ở trong miền Nam được chuyển ra miền Bắc (gọi tên chung là tập kết). Có 3 khu vực tập kết là Hàm Tân-Xuyên Mộc, Đồng Tháp Mười, Cà Mau và không biết Vũ Anh Khanh tập kết tại địa điểm nào kể trên. Ông ra Bắc rồi đi dự Hội Nghị Các Nhà Văn Á Châu (HNCNVAC) tại New Dehli (Tân Đề Li-Ấn Độ) tháng 12 năm 1956. Tham dự hội nghị là phái đoàn của 16 quốc gia (gồm 14 quốc gia CS và chỉ 2 quốc gia tự do là Ấn Độ và miền Nam VNCH). Vũ Anh Khanh có mặt trong phái đoàn miền Bắc VNDCCH chung với nhà văn Nguyễn Công Hoan (tác giả Bước Đường Cùng, Đống Rác Cũ…). Lý do Vũ Anh Khanh được nhà cầm quyền miền Bắc khi đó cử đi dự đại hội HNCNVAC là vì công an không thấy ông trong cuộc tụ tập ở khu Trường Tiền-Hà Nội để phản đối sự chỉ huy văn nghệ của Đảng (nhân có phong trào Trăm Hoa Đua Nở-Trăm Nhà Đua Tiếng). Cuộc tụ tập đó do nhóm tập kết miền Nam phản đối các lãnh đạo CS Hà Nội. Sau khi dự đại hội HNCNVAC về, có lẽ đã thấy bộ mặt thật của chế độ CS tại miền Bắc nên khi Vũ Anh Khanh có giấy đi công tác (cách vài tháng sau) ở tỉnh lỵ Vĩnh Yên (phía Bắc Hà Nội) và thi sĩ đã sửa giấy công tác đó từ Vĩnh Yên thành Vĩnh Linh (một đặc khu tương đương cấp tỉnh), địa danh gần sông Bến Hải. Vũ Anh Khanh đến Vĩnh Linh và ông đã mạo hiểm vượt tuyến bằng cách bơi qua sông Bến Hải nhưng không thoát. Một mũi tên độc đã cắm vào người ông, lôi ông chìm xuống đáy và chết mất xác.
Sông Bến Hải (giới tuyến chia cắt hai miền Nam-Bắc) thuộc thôn Hiền Lương (cầu trên sông mang cùng tên) xã Vĩnh Thành huyện Vĩnh Linh của tỉnh Quảng Trị. Giai đoạn Vũ Anh Khanh đến Vĩnh Linh thì ở phía bờ Bắc (do chính quyền miền Bắc VNDCCH kiểm soát) có 2 đồn công an đóng tại Hiền Lương và Cửa Tùng. Đồn Hiền Lương nằm sát bên cầu, đồn Cửa Tùng đóng ở bãi biển xã Vĩnh Quang. Đồn nào (theo quy định của bản Hiệp Định Geneva) chỉ có 16 nhân viên nhưng con số thực tế nhiều hơn. Vả lại, vì là giới tuyến trực diện với vùng đất phía Nam của chính quyền miền Nam VNCH nên dân chúng sinh sống sát bờ sông Bến Hải thực tế là các gia đình công an giả trang. Vũ Anh Khanh đến đây nhằm tìm dịp để vượt tuyến đào thoát vào miền Nam VNCH nhưng ông không ngờ trước đó (ngày 4 tháng 10 năm 1956), đã có 3 người dân miền Bắc liều mạng bơi qua sông và họ thành công. Chính quyền miền Nam VNCH đã không giữ kín việc này khi họ tổ chức họp báo để thông tin và miền Bắc VNDCCH biết được. Công an CS tại Vĩnh Linh đã họp và quyết không để trường hợp tương tự tái diễn. Họ đã kín đáo canh phòng nghiêm nhặt dù bên ngoài vẫn để các sinh hoạt dân dã bình thường và Vũ Anh Khanh đã mắc bẫy. Có lẽ vào ban ngày ông đã tìm cách bơi sang sông (chỉ rộng hơn 100 m) rồi bị công an phát giác và các mũi tên độc (được bắn ra từ nỏ lớn) của công an đã kết liễu đời ông. Việc dùng tên tẩm thuốc độc (thay cho súng) là cách mà công an CS muốn tránh bị Ban Liên Hợp Quốc Tế Giám Sát-Kiểm Soát việc áp dụng Hiệp Định (có mặt tại đây) phát giác việc họ truy sát dân lành vượt tuyến (Có tiếng súng nổ thì họ sẽ cho điều tra). Cái chết của Vũ Anh Khanh, có thể do công an CS đã thông báo cho dân chúng biết như một răn đe nên kể từ sau đó (tháng 4 năm 1957), không còn người vượt tuyến vào miền Nam bằng cách bơi sang sông Bến Hải nữa.
Là một người yêu nước tuy có lúc sai lầm khi đứng bên phía CS, sau cùng Vũ Anh Khanh đã đào tị nhưng không gặp may. Chính quyền CS đã cố tình gạt bỏ tên ông trong văn học sử mà ngay cả chính quyền miền Nam VNCH cũng đối xử tương tự với ông khi gạt bỏ tên trong chương trình giáo dục phổ thông cùng cấm lưu hành các sách in của ông. Họ xếp ông là văn-thi sĩ CS (do đã tập kết ra miền Bắc năm 1954 và dự đại hội HNCNVAC tháng 12 năm 1956) và đó là một đối xử bất công.
Bài thơ Hận Tha La được các nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ thành bài hát (năm 1964) mang tên Tha La Xóm Đạo, nhạc sĩ Sơn Thảo’S phổ thành bài hát (năm 1965) mang tên Hận Tha La và nhạc sĩ Anh Tuyền phổ thành bài hát (năm 1965) mang tên Vĩnh Biệt Tha La.

Từ Đó Em Buồn - Trần Thiện Thanh

Từ biệt nhau đi giữa mùa trăng xẻ đôi
Lúc tình mới thành lời
Trông nhau lần cuối, nước mắt tuôn mặn môi
Nước mắt chia đôi đời
Bóng anh khuất sau đồi, lúc mây tím giăng trời
Lúc giông tố tơi bời, lúc đường đời ngăn đôi
Đường đời ngăn đôi để một người sầu lên môi
Nên từ đó em buồn
Tạ từ anh hứa đến tròn hai mùa Xuân sẽ về nối lời thề
Xuân qua hè tới, thấm thoát đã mười đông
Không tin thư đưa về
Nhớ anh, nhớ vô vàng, nhớ anh nhớ muôn ngàn
Nhớ anh đã bao lần mắt nhòe lệ đêm mơ
Lệ nhòa đêm mơ, mong đợi người về lau khô
Nên từ đó em buồn
Từ đó đâu còn nữa, đêm hẹn xưa tha thiết gọi tên nhau
Từ đó đâu còn nữa
Trăng ngày xưa lưu luyến soi đôi đầu
Gương xưa còn đó nhưng bóng hình nào thấy đâu
Áo xưa còn đó nhưng mùi hương phai nhạt rồi
Từ đó, nghe trong lòng
Nghe

Tuesday, April 14, 2020

Thèm - Tiểu Tử

            Tụi bây biết không ? Bây giờ tao đi làm bằng xe đạp. Tụi bây đừng cười. Tao không giỡn đâu. Hồi xưa, trong bọn mấy đứa tụi mình, tao là thằng tếu nhứt. Tao hay kể chuyện tiếu lâm, hay bịa chuyện này chuyện nọ để chọc cười, để phá phách cho vui với nhau. Nên tụi bây thường nói: “Coi chừng ! Nó nói cái gì mình phải xin keo coi có đúng không, rồi hãy tin”. Hồi đó, khác. Bây giờ, khác. Tụi bây đi hết rồi, chỉ còn mình tao kẹt lại. Nói thiệt hay nói dóc đều không còn ý nghĩa gì nữa, cũng không còn giá trị gì nữa đối với tao. Bởi vì không còn ai để giỡn, không còn lòng dạ đâu để giỡn, và cái cười của tao đã vượt biên đâu mất từ lâu...

            Điều ngộ nghĩnh là, bây giờ, bất cứ chuyện gì tao kể ra chắc chắn tụi bây đều không tin ráo ! Bởi vì tụi bây đã di tản trước ngày 30 tháng tư 1975, không thấy không biết những gì đã xảy ra ở trong nước, làm sao mà tin ? Vả lại “những gì đã xảy ra” đã không xảy ra theo quy luật thông thường. Tất cả đều bị xáo trộn, đảo lộn một cách nghịch lý đến nỗi tao là người sống trong đó mà lắm khi tao phải tự hỏi: “Làm sao có thể như vậy được ?”. Vậy mà nó đã “như vậy được” tụi bây à ! Khó tin nhưng có thật ! Cho nên, những gì tao viết ở đây cho tụi bây hoàn toàn là những chuyện có thật mà... khó tin đó.

            Ngoài ra, trong cuộc sống hằng ngày, tao cứ phải nghe ra rả nói láo nói dóc, cứ phải luôn luôn nói láo nói dóc... Nào là “Đã vượt chỉ tiêu 150%” (Chỉ tiêu là con số đã được ấn định trước cho mức sản xuất, không biết là bao nhiêu, nhưng thấy tháng nào cũng vượt, năm nào cũng vượt, nghành nào cũng vượt – tao phải... dịch những chữ mới rõ ràng ra như vậy cho tụi bây hiểu, bởi vì bây giờ mình không còn nói giống như hồi trước nữa). Nào là “Đã hồ hởi phấn khởi đi làm nghĩa vụ” nghĩa là đi làm cái nghĩa vụ gì đó một cách... khoái trá sôi động bởi vì biết chắc rằng không đi cũng không được. Nào là “Hoàn toàn nhất trí” ( Bây giờ không  nói ề nhứt Ừ nữa, mà nói ề nhất Ừ. Nghe... cách mạng hơn ), nghĩa là “đồng ý hoàn toàn”, cho nó rồi, kẻo không thì... kẹt lắm. Mọi người đều “nhất trí” hết mà mình không “nhất trí” thì nó... lòi ra coi không giống ai. Thành ra “nhất trí” cũng có nghĩa là “phải làm như mọi người”. Tụi bây hiểu chưa ? Nào là “Làm việc rất là năng nổ”. Tao nghĩ chắc khỏi cần dịch. Tụi bây cứ nghe “nó... lốp bốp” là đoán ra cái nghĩa của nó rồi. Đại khái là làm việc giống như có cờ phất trống khua, có loa trên loa dưới ồn ào, còn lè phè suốt buổi hút thuốc uống trà là chuyện khác... vân vân và vân vân... Kể không hết !

            Sau bao năm dài sống trong môi trường như kể trên, “cái thèm” rất lớn của tao là được sống thật, nói thật. Cho nên, viết cho tụi bây giống như tao được... giải phóng. Vậy những gì tao kể ra đây, tụi bây khỏi phải xin keo !

            Bây giờ, tao đi làm bằng xe đạp. Vẫn làm ở sở cũ. (Còn được làm việc ở sở cũ là may đó nghen. Nhiều người bị đổi đi nơi khác xa hơn và thường thì ở một nghành nghề không dính dấp gì với phần chuyên môn của mình hết. Cách mạng mà !). Cái xe hơi con cóc , tao đã cho nó lên nằm trên bốn gộc cây để bán lần bán hồi bốn bánh xe, cái bình điện, cái đề-ma-rơ... Hầu như tháng nào tao cũng phải bán một món gì trong nhà, bởi vì lương của tao cộng với những gì vợ tao và hai con gái lớn kiếm được hằng tháng... không đủ sống. Tình trạng đó bắt đầu từ sau hai “trận” Nhà Nước đổi tiền.

            Đạp xe riết rồi cũng quen. Khoảng cách trên mười cây số từ nhà đến sở, tao coi như “pha”. Chỉ bực mình là xe đạp của tao hay sút sên khi nó “nhảy” ổ gà. Mà đường sá bây giờ, ổ gà ở đâu nó... lòi ra nhiều quá. (Người ta nói Mỹ rút đi, để lại toàn là đồ giả không – tao nghe sao chép vậy !). Cho nên, ở nhiều đoạn đường, tao lái xe tránh ổ gà giống như người say rượu ! Vậy mà có hôm vẫn “nhảy” ổ gà cho nên hai tay tao thường lấm lem dầu, đất, mà quần áo thì ướt đẵm mồ hôi.

            Bây giờ, tao làm việc “thông tầm”, nghĩa là làm suốt tới chiều rồi về sớm không có về nhà ăn cơm nghỉ trưa như hồi trước. Vì vậy, mỗi sáng tao mang theo một lon ghi-gô cơm với vài miếng cá mặn để ăn tại bàn viết buổi trưa. Chiều về sớm, tao có bổn phận nấu cơm làm đồ ăn, bởi vì giờ đó vợ con tao còn làm việc ở tổ may thêu cách nhà cũng khá xa.

            Mỗi sáng đi làm, lúc nào tao cũng đem theo cái giỏ đi chợ treo tòn ten ở ghi-đong, giống như đi chợ chớ không giống đi làm ! Bởi vì trong sở thường hay... bất thần bán cho nhân viên (gọi là “phân phối” chớ không gọi là “bán”, nghe có vẻ... chia xẻ hơn là trao đổi) cá, rau cải... vv. Tuy không nhiều và không được lựa chọn vì phải... bắt thăm trúng lô nào lấy lô đó, nhưng rẻ hơn ngoài chợ thành ra cũng đỡ. Cho nên, đi làm việc mà ngày nào cũng nhóng nhóng hỏi thăm “coi bữa nay có phân phối gì không ?” và chiều về đến nhà, thằng con tao – thằng út đó, tụi bây nhớ không ? bây giờ nó lớn đại rồi – chạy ra mở cổng lúc nào cũng hỏi: “Bữa nay có mua được gì không ba ?”. Và hôm nào thấy trong giỏ có đồ gì để ăn là mắt nó sáng rỡ. Tội nghiệp, sống trong sự thiếu thốn triền miên, có đứa nhỏ nào, có người lớn nào mà không nghĩ đến miếng ăn ?

            Bây giờ, tao hút thuốc lá vấn tay. Tao tự vấn lấy. Không phải tao muốn lập dị mà vì tao không đủ sức mua loại thuốc điếu kỹ nghệ thông thường. Mới đầu, tao vấn thuốc rê Gò Vấp. Nó nặng muốn... tét phổi ! Về sau, tao bắt chước thiên hạ mua thuốc lá Lạng Sơn đã xắt sẵn - nghe nói là giống thuốc Virginia, mấy ông ngoài Bắc bảo thế ! - đem trộn với thuốc Gò Vấp, hút thấy được. Vậy là mỗi khi muốn hút, tao cứ tà tà xé một miếng giấy quyến, tà tà rứt một miếng thuốc kéo cho dài dài ra khi để lên lòng giấy, rồi đặt hết tâm tư vào mấy ngón tay (của cả hai bàn tay đang chụm đầu lại nâng nhẹ giấy và thuốc !) để ém, lận, cuốn, xe... cho điếu thuốc được tròn đều trước khi đưa lên lưỡi liếm. Xem thật “ung dung nhàn hạ”. Giống như một nghi thức. Và tao có quyền tà tà vấn thuốc như vậy bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào: trong khi làm việc, trong các buổi hội họp học tập, và cả ngay trước mặt ông xếp của tao nữa (Bây giờ gọi là “thủ trưởng”, nôm na là “cái đầu đứng đầu”. Còn cái đầu có cái óc hay không lại là chuyện khác). Cho nên, hút thuốc vấn – đối với tao – giống như là một cách thoát tục, cái “tục” quá... tục mà tao đang sống bây giờ. Tuy nhiên, sao tao vẫn nghe thèm điếu thuốc ba số năm là loại thuốc mà mấy chục năm tao đã hút ! Làm như mùi vị của nó còn nằm ở đâu trong máu trong xương. Nhiều đêm trở giấc, tao nghe thèm ray rứt, thèm chảy nước mắt !

            Chiều hôm qua, trên đường về nhà, đạp xe tới chợ Tân Định thì trời bỗng đổ mưa. Tao tấp vô đụt mưa dưới mái hiên tiệm nước nằm ở góc đường dọc hông chợ (tao quên tên) và đường Hai Bà Trưng. Lúc đó, cỡ gần năm giờ (đồng hồ tay, tao đã bán từ lâu, nên từ lâu, tao chỉ... đoán giờ thôi !). Trong tiệm thấy lai rai có người ăn uống.

            Tao đã đứng sát vào vách vậy mà gió cũng tạt mưa vào ướt hết phía dưới chân. Một lát, tao nghe lạnh chân. Rồi tao nghe đói. Cái đói đến một cách đột ngột, giống như nó chui từ dưới chân chui lên. Hồi nãy đạp xe trên đường, tao có thấy đói đâu, mặc dù  buổi trưa tao chỉ ăn có một lon ghi-gô cơm với ít mắm ruốc – dĩ nhiên là tao có uống thật nhiều trà, thứ này, loại thường thôi, trong sở ( Bây giờ gọi là “cơ quan”) có chị nhân viên tối ngày cứ châm đầy bình cho mình uống “líp” – Vậy mà bây giờ tao lại thấy đói. Có lẽ tại vì lỗ mũi tao nghe mùi hủ tiếu, mùi mì. Ờ... tụi bây không biết chớ từ lâu rồi – tao không nhớ là bao nhiêu lâu, nhưng chắc là lâu lắm – tao chưa được ăn mì. Bây giờ đứng đây phía đường hông chợ Tân Định, phía trên gió, vậy mà vẫn “đánh hơi” rõ mồn một mùi nước lèo của xe mì nằm bên đường Hai Bà Trưng, phía dưới gió, rõ như hơi của nước lèo đang bốc lên ngay trước mũi ! Tao nuốt nước miếng.

            Thèm quá ! Tao thèm ăn ngay một tô mì ! Thọc tay vào túi quần, tao đụng hai tờ giấy bạc. Móc ra xem thì ra là hai đồng. Tao chỉ có ngần đó thôi ! Nhưng hai đồng, đủ để ăn một tô mì rồi ! Thì ăn... đại một tô cho nó đã ! Tao dợm bước vào tiệm nước bỗng nhớ lại vợ tao hồi sáng khi trao cho tao hai đồng đó, có dặn: “Chiều, anh ghé chợ Cây Quéo mua 6 cái hột vịt và nửa giỏ rau. Về, anh bắc nồi cơm bỏ vô luộc trước. Chừng mẹ con em về, em làm nước mắm rồi dầm cho nhà ăn.” Hình ảnh cả nhà tao 7 đứa quây quần bên “nửa giỏ rau và 6 cái hột vịt” và hình ảnh tao một mình ngồi ăn tô mì... làm tao khựng lại. Tô mì mà tao muốn ăn, thèm ăn, là cả một bữa ăn của gia đình ! Tao không thể đổi được. Thà là tao nhịn thèm. Thà là tao chịu đói để về ăn chung với vợ con. Ăn thứ gì cũng được, ít nhiều gì cũng được, dở ngon gì cũng được. Miễn là ăn chung với tụi nó. Để thấy rằng cuộc đời tao bây giờ chỉ còn lại có tụi nó là quí thôi ! Tao nghe thương vợ thương con vô cùng. Và tao cũng nghe thương thân tao vô cùng...

            Tao đứng yên nhìn ra mưa bỗng nghe hai má của mình ướt lạnh. Đưa tay lên vuốt mặt mà nghĩ rằng mình vuốt nước mưa trên má...
(Trên đây là lá thơ viết lỡ dở, của ai viết cho ai, tôi không biết. Thơ viết trên giấy tập học trò, Chữ nhỏ li-ti, nhưng đẹp và rõ nét. Tình cờ, tôi nhìn thấy “nó” trong xấp giấy gói hàng cùa bà bán xôi đầu ngõ nên tôi xin...)

Tiểu Tử

Sunday, April 12, 2020

Chút cảm nghĩ từ Canada...

Tôi là Canadian, tôi không ưa ông Trump khi ông còn là tỷ phú, tổ chức thi hoa hậu, nhìn ông có vẻ câng câng với mái tóc vàng chải chuốt.  Khi ông ra ứng cử, tôi vẫn nhìn chính trị nước Mỹ một cách hững hờ tuy rằng bên Canada chúng tôi cũng cá cược cho vui. Khi ông Trump thắng cử và chính thức lãnh đạo nước Mỹ thì tôi thấy ông tuy có nhiều khuyết điểm nhưng ông là vị TT giỏi, hiểu bản chất của Trung cộng, đối đầu với Trung cộng, làm TC xiểng liểng mất mộng bá chủ toàn cầu. Ông cũng muốn xoá bỏ chế độ cộng sản và khủng bố. Tôi thấy chính sách và hành động của TT Trump đối với TC, cộng sản và khủng bố rất dứt khoát và tốt cho thế giới và đặc biệt cho VN.

Tôi là người nước ngoài nên tôi không ở bên Pro.Trump hoặc Anti.Trump.  Tôi khách quan thấy tổng thống Trump đúng là đang làm cho “Americans great again “ mặc dù bị quậy phá, cản đường bởi đảng Dân Chủ và truyền thông với những thủ đoạn chính trị vô lý. TThống vẫn strong, và ông thực sự đã kiện toàn nước Mỹ, build up chính trị và kinh tế nước  Mỹ trở thành hùng mạnh. Ông là vị TT dám nói dám làm, có chính sách bảo vệ dân Mỹ rõ ràng, tiếc là Đảng Dân Chủ và Truyền thông ngáng đường, múa may, quậy lung tung xèng.

Người thì chèo con thuyền quốc gia tiến tới vượt qua cơn bão táp, kẻ thì quậy lung tung, chèo ngược lại, quên lợi ích quốc gia chỉ để thỏa mãn mưu đồ chính trị, thủ đoạn hèn hạ của Đảng mình.

Bên  Canada chúng tôi cũng có hai Đảng mạnh là Liberal  và Đảng đối lập là Conservative. Thủ tướng Trudeau có nhiều sai lầm và phản ứng với pandemic rất chậm sau TT Trump xa, chúng tôi có phàn nàn, kêu ca nhưng Đảng đối lập và chúng tôi cùng đồng lòng với thủ tướng để cùng nhau vượt qua pandemic này. Công dân nào không thích Thủ tướng Trudeau của Liberal thì sẽ xử dụng lá phiếu của mình trong kỳ bầu cử mới để loại và chọn người xứng đáng hơn 

Nếu tôi là công dân nước Mỹ, tôi sẽ rất hãnh diện có một vị tổng thống lãnh đạo đất nước như vậy. 
Nếu tôi là công dân nước Mỹ tôi sẽ rất xấu hổ khi có đảng Dân Chủ và một số truyền thông chả làm gì lợi ích cho dân mà chỉ biết quậy tung đất nước Mỹ, muá may như những người bị tâm thần.

Quý anh trong Forum ghét Trump đâu có biết là chính những chửi rủa, mạt sát Trump một cách vô lý kỳ cục thay vì công bằng và lịch sự trên forum đã làm khó chịu, không khí trong forum trở thành nặng nề đã càng đẩy chúng tôi thích Trump hơn. Có lẽ có rất nhiều các anh chị trong forum cũng nghĩ như tôi nhưng không tiện nói ra. 

Cũng chính vì đảng dân chủ và truyền thông dùng thủ đoạn,  chơi  không công bằng nên hàng xóm sát vách là dân Canada 🇨🇦 chúng tôi có thể thích Trump tỷ lệ cao hơn tỷ lệ không thích. 
Bạn bè chúng tôi thì có 7/10 thích đường lối lãnh đạo của TT Trump. 

Trên đây chỉ là chút nỗi lòng muốn chia sẻ khi thấy đến hôm nay, dịch Vũ Hán  rất rất trầm trọng ở Mỹ mà thay vì đồng lòng góp sức, share những tin tức hữu ích như thống kê tình hình về pandemic của anh B, Hospital ship 🛳 great information của anh L...và ý thức và trách nhiệm cùng nhau đồng lòng chèo chống con thuyền quốc gia vượt qua cơn đại nạn thì một số anh trong forum lại chỉ biết bới móc, đổ lỗi cho TT Trump, ngây thơ tìm những bài viết, những hình ảnh Photoshop vô duyên,  vớ vẩn về TT Trump post lên. Chán thiệt nghe, riết rồi những bài post lên của mấy anh giống như Vũ Hán CoronaVirus bị mọi người tránh vậy, hễ thấy là không muốn đọc và  delete liền.

Enough is enough.

Thân mến 
🍁 Kiều Sơn
     Donald Trump interview 1980
                         https://www.youtube.com/watch?v=nAgJAxkALyc

                              DJT - Transformation From 3 To 71 Years Old
                          https://www.youtube.com/watch?v=lAWa6RWq4I4

Tôi viết về cảm xúc của tôi với người tổng thống - Vanessa Nguyen

Từ 3 năm qua, khi nói về TT Trump, tôi share từ bài của người khác, hình như chưa bao giờ tôi viết về cảm xúc của tôi với người tổng thống mà có lẽ trong lịch sử của nhân loại chưa ai được báo chí và người dân trên thế giới nhắc nhiều như ông.

Nhiều người không biết tưởng tôi crazy about Trump. Thật sự, tôi là hard core Trump supporter, đơn giản vì tôi ủng hộ chính sách của ông, một chính sách mang lại sự thịnh vượng về kinh tế , an ninh vững mạnh cho Hoa Kỳ. Đặc biệt, ông ta đã làm một việc mà trên thế giới chưa ai dám làm: Đứng ra tuyên chiến với China, cứu Mỹ và thế giới ra khỏi sự lệ thuộc vào giấc mộng bá vương của China. Nể ông, có. Tôn trọng ông, có, nhưng nói rằng tôi yêu mến ông với một tình cảm sâu đậm gần như thần tượng thì thật sự tôi không có. Với tôi, tổng thống hoặc chính quyền là người mà dân mướn để làm việc, làm được việc thì mình bầu lại, không làm được việc thì lần tới mình chọn người khác. TT không phải là người chồng, người yêu, hay bạn thân của mình để mà tôi áp đặt cùng một tiêu chuẩn khi chọn lựa. Trên Fb cũng như ngoài đời, tôi biết những bậc linh mục, mục sư, đạo sư Phật giáo, những người tôi kính trọng và thích nghe họ giảng về đạo đức và cách sống , nhưng tôi sẽ không bao giờ chọn những người này làm TT vì tôi biết dù đạo đức họ rất tốt, họ không đủ khả năng làm TT.

Nói ra hơi mắc cở. Ngày xưa tôi không biết gì về chính trị, tôi thường bầu cho những người nói chuyện hay, văn chương lưu loát, mặt mũi dễ nhìn, họ có vẻ thương người , và hứa hẹn sẽ giúp người nghèo. Nhiều người tưởng phụ nữ bầu TT là vì bề ngoài , thật sự là vì cái miệng của chính trị gia đấy nhé 😄🙏. Chính trị gia nói chuyện càng giỏi thì càng thuyết phục được phụ nữ. Tôi lúc ấy không có kiến thức và kinh nghiệm, nên trong primary, đã chọn Bernie Sanders, mà mãi sau này tôi mới biết ông ta chính là một tên CS chính gốc.

2016, Đảng DC đã hất Bernie Sanders , chỉ còn lại Hillary Clinton VS Trump. Tôi không thể nào chọn Hillary vì tôi không tin bà và Obma từ vụ Benghazi. Theo dõi trên TV, ngay từ đài CNN, tôi đã nhận ra sự gian xảo, và tàn nhẫn của Obama và Hillary. Bàn tay của họ đã nhúng máu người dân Mỹ, nhưng họ hèn nhát đổ cho người làm phim. Một người như Hillary không thể làm TT. Nước Mỹ sẽ có đàn bà làm TT, nhưng không thể là một người đàn bà quỷ quyệt, táng tận lương tâm như Hillary. Tôi tin rằng tôi và rất nhiều người khác đã bầu cho Trump vì muốn loại Hillary, mặc dù lúc đó mọi người cũng không biết được Trump sẽ handle công việc ra sao. Tôi chỉ nhớ rằng lúc đó vào page của ông, tôi thấy có rất nhiều người ủng hộ ông, những người từ đủ mọi tầng lớp, từ các thành phố nhỏ, họ nghèo, và họ chán các chính trị gia ở Washington, những người hứa mà không làm, và họ trông đợi Trump làm TT để thay đổi nước Mỹ. Rất nhiều người cầu nguyện cho ông. Dường như đang có một cuộc cách mạng thầm lặng xảy ra nơi nước Mỹ, tôi nghĩ. Lúc đó, dù polls đều nói Hillary sẽ thắng, 3 ngày trước ngày bầu cử, tôi có cảm giác ông sẽ thắng . Nếu tất cả những người silent voters này đi bầu cho ông, ông sẽ thắng. Hơn nữa, tôi chưa bao giờ thấy ai được nhiều người cầu nguyện như ông.

Ông đã thắng và trở thành TT của nước Mỹ. Lạy chúa, tôi chưa bao giờ chứng kiến sự kinh hoàng của một đất nước Mỹ tiếng gọi là tự do, nhưng lại để cho Đảng DC và followers của họ hành động mất dạy điên cuồng như thế. Những cuộc biểu tình đốt phá, đốt lá cờ, ỉa đái trên lá cờ của một lũ người vô giáo dục nhưng ngỡ mình là văn minh đang thực hiện quyền tự do ngôn luận. Không một ngày nào nước Mỹ được yên thân với Đảng dân chủ. Họ bịa chuyện đánh phá TT hàng ngày trong hơn 3 năm qua, hết bươi móc chỉ trích, hết cuộc điều tra này đến cuộc điều tra khác, mà tôi và nhiều Trump supporters đã viết những stt cảnh báo Trump haters rằng đừng bị Đảng dụ dỗ. SẼ KHÔNG BAO GIỜ ĐẢNG DÂN CHỦ LẬT ĐỔ ĐƯỢC TRUMP vì tất cả investigations và impeachment là sự giả bộ của Đảng Dân chủ. Thế mà vẫn có rất nhiều những con lừa tin theo. Xin hỏi những con lừa này cổ đã dài cỡ nào rồi?

Một điều mà tôi thán phục TT Trump là trong khi phải đối phó với nội thù là Đảng Dân chủ đánh phá ông hàng ngày, ông vẫn hoàn thành nhiệm vụ của ông với những thành tựu đáng nể. Ông đã thực hiện mọi lời hứa của mình với his voters. Kinh tế lên mạnh, dân Mỹ mọi người có công ăn việc làm, isis bị tiêu diệt, dân Mỹ không còn có chuyện bị Isis cắt đầu như thời Obama. TT Trump đã vực lại nước Mỹ. Điểm nổi bật là ông dám đánh China. Nếu bất cứ ai giờ này mà còn không biết kẻ thù của nước Mỹ và thế giới chính là China thì não của người đó có vấn đề nhé. Trump haters nghe rõ đây: Kẻ thù của Mỹ và thế giới là China, chứ không phải là TT Trump. Trong khi cả thế giới và nước Mỹ đang khốn khổ vì con virus china, bạn không hề lên án China, thậm chí còn bênh vực kẻ thù, và ngồi đó lo bươi móc, chỉ trích TT, cầu mong dân Mỹ chết nhiều , kinh tế xụp đổ để TT không thể tái đắc cử. Tỉnh dậy đi, kẻ thù là China. Bạn và gia đình bạn sẽ không chết vì Trump, nhưng có thể sẽ chết vì con virus China. Đừng tiếp tục tiếp tay với kẻ thù đánh phá nước Mỹ. Tôi nói thẳng nhé: Bạn không có một tư cách gì để nói chuyện đạo đức với ai cả. Trước khi phê phán đạo Đức của TT Trump, xin mỗi Trump haters cầm cái gương soi lên khuôn mặt mình xem mình có toàn vẹn không? Những lời nói chuyện của bạn về đạo đức chỉ làm tôi khinh vì bạn là người đạo đức giả, chỉ có thể qua mặt được các cô gái trẻ em mới lớn mà thôi. Trong đất nước tự do này, bạn chỉ chứng tỏ sự man rợ của bạn khi bạn không tôn trọng kết quả của bầu cử, không tôn trọng lá phiếu của người dân. Trump supporters don't have to explain why they support Trump. Who do you think you are, Trump haters, để mà bắt buộc Trump supporters không được quyền support Trump. Bạn chẳng là cái thá gì mà chúng tôi phải nghe bạn, và chúng tôi rất hãnh diện là người cuồng Trump, người mang lại lợi ích cho Mỹ, không như những anti Trump, ghét Trump đến nỗi mong những điều xấu xảy ra cho Mỹ, để TT Trump không thể đắc cử.

Bản tính tôi là bênh vực kẻ bị ức hiếp. Thấy Đảng dân chủ đã quá đáng khi liên tục tấn công một vị TT đã được dân chọn qua lá phiếu , mà trong đó có lá phiếu của tôi và của bạn bè tôi, tôi phải defend ông và defend nước Mỹ. Là một phụ nữ thích nghe lời ngọt và dịu dàng, cách nói chuyện thẳng thắn , bộc trực không sugar coat của TT Trump không mê hoặc được tôi, tôi có lẽ sẽ không thích date những người nói chuyện quá thẳng như ông 😂, nhưng tôi sẽ chọn ông làm TT vì tôi thích những điều ông đã làm được cho nước Mỹ. Sau 3 năm dưới Trump leadership, tôi đã trưởng thành hơn, tôi hiểu được rằng ai cũng có thể nói hay, nói ngọt , hứa hẹn đủ điều, dẫn dắt ta vào thế giới ảo của một thiên đường hạnh phúc, nhưng chỉ có hành động của một người vượt qua mọi trở ngại thực tế của cuộc sống , giữ tròn lời hứa, và dẫn dắt toàn dân đạt được ấm no, tự do mới là người thật, việc thật , không để cho người dân ăn chiếc bánh vẽ. Người đó chính là TT Trump.

Ba năm qua tôi bận rộn viết những chủ đề về nước Mỹ đang bị CS xâm nhập dưới sự đội lốt của Đảng DC, về sự nguy hiểm của trẻ em của nước Mỹ đã bị nhà trường và truyền thông tẩy não mà bây giờ khoảng gần 60% trẻ em Mỹ thích CNXH, tôi không viết về cảm xúc của riêng tôi đối với TT Trump. Nhưng những ngày này, khi cả nước Mỹ gần như gục ngã vì con Chinese virus, nhìn TT Trump ngày đêm miệt mài lo cho nước Mỹ, mặt mũi ông bơ phờ mà lần đầu tiên trái tim tôi thật sự xúc động. Tôi tưởng tượng ông thức khuya dậy sớm, lo chống đại dịch, ông là người TT lo cứu từng người dân Mỹ bị nguy hiểm ở nước ngoài, thì ông chắc chắn phải đau lòng lo sợ khi thấy số tử vong của dân Mỹ lên cả ngàn người. Chẳng những ông phải lo chống đại dịch cứu dân, ông phải chống China, phải chống nội thù là Đảng dân chủ thừa cơ hội đánh phá ông ngày đêm ngay trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng của đất nước và thế giới. Ông bị kẻ thù vây bủa tứ bề. Tôi tin rằng dù ông có cứng rắn, mạnh mẽ, ông vẫn là người , và chắc chắn ông có lúc cảm thấy rất buồn và lo trong tình trạng quá nguy hiểm, thù trong giặc ngoài . Càng thương cảm cho ông, tôi càng giận những Trump haters, kẻ ngỡ mình là người đạo đức, nhưng hành động ác độc và vô tâm, đặt cảm xúc ích kỷ của mình trên nỗi đau của nhân loại, hùa vào đánh phá Trump lúc này. Những người không còn lương tri này hãy nhớ rằng: Trái cam không bao giờ hái được từ cây Bồ hòn. Niềm vui của mình không được xây dựng trên nước mắt, đớn đau của người khác. Trước khi quan tâm đến chính trị , xin hãy tập làm người có lương tâm.

Trong những ngày đen tối của nhân loại, tôi cảm thấy rất thương cảm cho TT Trump. Những người tốt đôi khi lại là những người bị misunderstood, và những người bị kẻ thù đánh phá nhiều nhất.
 
Lạy cha nếu có thể được
Thì xin cho con khỏi uống chén đắng này.

Một tỷ phú giàu có, ông có tất cả những gì thiên hạ mong muốn, một cuộc sống an nhàn, nhưng ông đã từ bỏ nó để lãnh lấy một trọng trách đầy gian nan mà kẻ thù trong nước và ngoài nước xâu xé ông từng giờ

Nguyện xin thượng đế hãy che chở cho ông để ông có đủ sức mạnh , bình tĩnh và khôn ngoan lèo lái con thuyền nước Mỹ ra khỏi khúc tăm tối và đến nơi an toàn.