Những năm tháng sống tại quê nhà trước
ngày 30-4-1975, năm nào tết tới cũng đều ao ước có được một cành mai vàng nho
nhỏ để vui xuân nhưng đã trót làm dân xóm biển, thì làm gì dư tiền để mua Mai
như thiên hạ. Bởi vậy chỉ còn ngắm Mai vô hồn trong các bức tranh têt, treo
trên vách lá, phên tre. Rồi thì tới tuổi lớn, thật sự mới có dịp thưởng thức
Mai thật trong rừng hay trên các vách núi cheo leo, qua những bước hành quân
xuôi Nam ngược Bắc. Nhưng buổi đó chiến tranh càng ngày càng mù mịt, tuổi đời
như gắn liền với tuổi lính, thân phận còi cọc lăn lộn trong khói lửa quê hương,
nên còn hồn đâu mà chiêm bái, Mai vàng, Hoa đào hay Cúc tía.. thậm chí có lúc
cả bọn chưa cạn xong tiệc rượu nơi quán bên đường, thì bên ngoài trống trận, đã
giục giã đoàn quân lên đường. Hỡi ơi đời lính là vậy đó.
Tết Phan Thiết vui từ những ngày
cuối chạp, mà chủ đích là rủ nhau đi chợ để mua sắm và ngắm người. Bắt đầu từ
ngày 25 tháng chạp, chợ trái cây và hoa đã được hình thành trên hai con đường
Nguyễn Văn Thành và Lê Văn Duyệt, cạnh vườn hoa nhỏ, bên hữu ngạn Mường Giang.
Giáp tết, hoa từ các nơi được đổ về thành phố vô số kể, làm như người Phan
Thiết, chỉ biết ăn tết bằng hoa, mặc sức mà lựa chọn. Thôi thì đủ thứ, từ các
loại hoa bình dân như mồng gà, vạn thọ, trường sanh, cúc, thược dược.. cho tới
các loài hoa vương giả nổi tiếng của Bình Thuận, là hoa Mai với màu vàng phớt,
có năm cánh mỏng mướt như lụa , lúc nào cũng nhè nhẹ muốn chực cười trước gió
xuân. Ðây là người bạn lâu đời của Phan Thiết, vì vậy mỗi độ xuân về, hầu như
nhà nào cũng có một cành mai, dù mua ở chợ hay lặn lội tới rừng xa, núi cao, để
chặt. Hoa bán thật nhiều, có năm thiếu người thưởng thức, nên vào chiều ba mươi
tết, nhiều loại hoa ế ẵm, đã bị chủ vất bỏ, nằm phơi lạnh lùng bên vệ đường ,
mặc cho hoa tàn cánh rũ. Thật thảm thay cho kiếp hoa tàn.
Tại Hà Nội, hằng năm sau ngày cúng đưa
Táo quân về trời, bắt đầu từ sáng 24 kéo dài tới chiều ba mươi, suốt một tuần
lễ có phiên chợ Hoa đặc biệt ở Phố Hàng Lược, chỉ bán các loại hoa, cây cảnh, đặc
biệt là Hoa Ðào và Quất, rất được nhiều người ưa thích vì lâu tàn, có thể chơi
suốt tháng giêng mới đem bỏ. Chợ Hoa ở Hàng Lược còn là trung tâm cung cấp hoa
cho các chợ Ðồng Xuân, Cửa Nam, Mơ, Hôm, Hàng Da và nhiều hè phố khắp Hà Nội.
Ðây là chốn ngàn năm văn vật của Ðại Việt, nên từ xưa kinh thành Thăng Long đã
là xứ ngàn hoa đua nở, từ Hồ Tây, Nghi Tầm, Võng Thị, Trích Sài.. kéo dài tới
Làng Yên Hoa trên đê Yên Phụ, Quảng Bá, Ngọc Hà, Nhật Tân.. Tất cả làm cho Hà
Nội thành xứ ngàn hoa, từng được thi nhân bao đời gọi là rừng mơ với nhiều loại
hoa mai, hoa đào trân quý.
Sài Gòn những ngày gần tết, đi đâu
cũng thấy toàn là hoa, làm cho mùa xuân thêm muôn màu nghìn dáng, với đủ loài
hoa từ Ðà Lạt, Phương Lâm, Sa Ðét, Gò Vấp, Thủ Ðức, Phú Thọ đưa vào. Những ngày
nay, đi đâu cũng thấy Sài Thành thật là thơ mộng, qua hình ảnh của những chiếc
thổ mộ lăn bánh cóc cách gõ nhịp khắp đường phố, xe nào cũng chất đầy hoa như đang
chở cả mùa xuân từ muôn phương đem về dâng hiến làm vui cho Sài Gòn. Tóm lại,
theo tập quán của tổ tiên truyền lại , thì vui xuân đón tết, ngoài việc bầy cỗ
bàn cúng kính tiền nhân. Ngoài ra hầu như nhà nào, dù giàu hay nghèo, cũng
không thể thiếu các món trà, rượu, pháo và nhất là các loại hoa đào (miền Bắc),
mai (miền Trung và Nam), đồng thời còn thưởng thức thêm các loại hoa cúc, hồng,
vạn thọ, trường sanh, mồng gà.. Riêng các cụ xưa có phần kiểu cách hơn , nên
luôn trong nhà lúc nào cũng có sẵn một chậu Lan, Cúc hay Mai tứ thời. Nhưng dù
các loài hoa có khoe trăm hương, ngàn sắc , thì những ngày Tết Nguyên Ðán tại
VN, đào và mai cũng vẫn là hai loài hoa trân quý, được mọi người ái mộ nhất.
1- MỖI NĂM HOA ÐÀO NỞ :
Ngày Tết chơi hoa đào, hầu như chỉ
thịnh hành trên đất Bắc. Riêng các tỉnh từ nam vỹ tuyến 17 vào tới mũi Cà Mâu,
nhà nhà dùng Mai thay Hoa Ðào trong ba ngày xuân, dù Ðà Lạt được mệnh danh là
xứ hoa đào. Mai và Ðào đều là hai loài hoa tinh khiết, quý hiếm trong muôn
loài, tượng trưng cho sức sống kỳ diệu của hoa giữa trời xuân, lại có hương thơm
nhẹ nhàng thanh thoát, hợp với không khí đầm ấm hạnh phúc của người đang rạo
rực vui xuân.
Thú chơi Ðào ngày tết đã có từ lâu
rồi. Tổ tiên ta thuở bình minh dựng nước trên đất Bắc, khi chọn hoa đào để làm
thú tiêu khiển trong ba ngày tết, chắc hẳn đã nghĩ tới màu đỏ thắm rực rỡ của đào,
giống như viễn ảnh của một năm mới sắp tới, cũng trong sáng đẹp đẽ như màu hoa.
Hơn nữa theo quan niệm của Á Ðông, màu đỏ luôn tượng trưng cho niềm hy vọng của
con người. Ngoài ra theo truyền thuyết , ngoài hoa sắc nõn nường, hoa đào còn được
coi như là vật trấn yêu , trừ ma quỹ. Diễn tích trên được rút từ truyện hai vị
thần Uất Lũy và Trần Trà ở núi Ðộ Sơn, cai quản một đám âm binh, quỷ sứ. Ðể trị
bọn chúng, hai thần đã dùng cành đào như một thứ vũ khí đặc biệt. Do trên, người
VN nhất là ở miền Bắc,qua ảnh hưởng của Trung Hoa, đều tin rằng chơi hoa đào
trong ba ngày tết, ma quỷ sẽ không dám vào nhà để lộng hành phá phách, làm hại
mọi người.
Tại Hà Nội, vào những ngày Tết có
bán hai loại hoa đào, đó là Hồng đào và Bích đào. . Ðây là loại hoa kiểng có màu đỏ thắm rất đẹp, không có quả. Thứ hoa
này có thể sống được vài ngày. Xưa nay với những người Việt di cư từ miền Bắc
vào Nam năm 1954, thì mỗi lần Tết đến có trăm nhớ nghìn thương, chứ đâu phải
chỉ có hoa đào, cây nêu và câu đối đỏ, như một nhà thơ nào đó đã viết :
‘ Em ở mình đây
trời nắng lắm
Sài Gòn không
biết có xuân sang
Xuân này xứ Bắc
ra sao nhỉ
đào có hây hây,
cúc có vàng
câu đối có còn
ôm đỏ cột
nêu dài tiếng
khách có khua vang ?
Nói như người Hà Nội thì mùa xuân là
mùa hoa, tựa như con người trên đường đi tìm hạnh phúc cho chính mình, biết gìn
giữ hay thưởng thức, nói chung phải có người biết chơi hoa, yêu hoa, trân quý
nâng niu thì hoa mới có ý nghĩa với đời. Bởi vậy đã có không biết bao văn nhân
tài tử đất Bắc, hàng năm không thèm ghé vào chợ Hoa Tết Hàng Lược trước mắt, mà
phải lặn lội trong mưa phùn gió bấc lạnh lẽo khổ sở, tìm tới các rừng Mơ ở tận
Nhật Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm, Từ Liêm.. với mục đích chỉ tìm cho bằng được một
hồn hoa còn trinh bạch, đang thẹn thùng e lệ núp lén đâu đó trong cảnh mưa gió
phủ phàng. Ðâu đâu cũng ngổn ngang những nhánh Chi Mai, một góc Trà Thâm, nhiều
giỏ Ðại Ðóa đang chen vai khoe sắc bên cạnh các chậu Mộc Lan.. tuy nhiên tất cả
đềukhông phải là những thứ người nghệ sĩ đang tìm kiếm, mà là Hoa Ðào. Ðây
chính là loài hoa được Thôi Hộ, Ôn Như Hầu, Nguyễn Du .. từng nhắc nhớ, loài
hoa Hồ Ly Tinh trải qua bao thế kỷ, đã ru hồn các nghệ sĩ, khiến cho họ phải
từng canh bâng khuâng, xao xuyến, mộng mị trong mong chờ. Vì vậy dù Tết đã qua,
hoa đã thành ‘ khứ niên ‘ nhưng linh hồn của nó vẫn như đọng lại nơi tâm khảm
của khách yêu hoa, khác nào nổi ngất ngư của mối tình đầu mà ta đã trải qua
trong đời với người yêu dấu ái.
Bao đời Hà Nội ngày xuân tươi thấm
qua màu đỏ chói của Bóch Ðào, Mộng Tự lẫn Ðào Thăng Long. Ngoài ra còn loại
Bạch Ðào cực hiếm khó có được, nên trong phút giao thừa đêm cuối chạp, thường
làm cho người yêu hoa phải ngẩn ngơ thao thức, đứng với hoa trong ánh bạch lạp
chập chờn trên bàn thờ, mà tưởng như hồn đã hóa thành đá, giữa cõi mênh mang
trống vọng biển đời, thực ảo, hơn thua, biết đâu mà mộng mị.
Nhưng nhắc tới hoa Ðào, ta không thể
không nhớ tới Vũ Ðình Liên với thi phẩm tuyệt tác ‘ Ông đồ già ‘ :
Mỗi năm hoa đào
nở
lại thấy ông đồ
già
bày mực Tàu giấy
đỏ
bên phố đông người
qua
năm nay đào lại
nở
không thấy ông đồ
xưa
Hỡi ơi mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân đi, bạn
bè người thân may mắn còn sống sót sau cuộc chiến, nào Nhật Trường, Huyền Vũ,
Hồ Tài, Trần Tác, Phùng Thế Xương, kể cả Võ Thị Thanh Tâm, tuổi đời mộng mơ đang
chớm, cũng đã trở thành người tram năm củ, dù Tết nào hoa Ðào cũng vẫn nở, mà
bóng người xưa đã khuất nẻo mây ngàn. Tóm lại, Hoa Ðào ngoài công dụng làm vật
trang trí cho người tiêu khiển, cũng đã đi vào kho tàng văn chương, tục ngữ của
nhiều dân tộc. Trong ‘ Cung oán ngâm khúc ‘ , Ôn Như Hầu đã viết :
‘ Áng đào kiểm đâm
hoa não chúng
khóc thu ba dợn
sóng khuynh thành ‘
Qua hai câu thơ trên, tác giả đã mượn
màu sắc tươi thắm , nõn nường của hoa đào, để diễn tả nhan sắc chim sa, cá lặn
của những người đàn bà đẹp. Nhưng tình là gì , nếu không phải là những uẩn khúc
thương tâm và càng xa xót đối với người đẹp. Bởi vậy thi nhân đã hạ bút viết
thêm ‘ Mà xui phận bạc nằm trong má đào ‘.
Má đào cũng được dùng để chỉ ngưởi đẹp.
Danh từ trên được rút từ điển tích Thội Hộ đời nhà Ðường, nhân tiết Thanh Minh
ngoạn cảnh, đi lạc vào một vườn hoa đào . Sau đó đã gặp và yêu một người con
gái đep tên Ðào Phụng Trinh . Cả hai đã gắn bó, thề hẹn và chàng hứa sẽ trở lại
thăm nàng . Năm sau, Thôi Hộ lại đếnvườn đào nhân buổi đầu xuân, nên khắp nơi
hoa đào rực rỡ khoe hương sắc đầy trời. Nhưng cảnh cũ còn đây , hoa đào còn đó,
mà bóng người xưa đã biền biệt phương trời. Não lòng, Thôi Hộ đặt bút viết một
bài thơ tứ tuyệt, dán nơi cửa vườn hoa năm ngoái, mà hai người đã gặp gỡ :
‘ Khứ niên kim
nhật thử môn trung
nhân diện đào
hoa tương ánh hồng
nhân diện bất
tri hà xứ khứ
đào hoa y cựu
tiếu đông phong ‘
Năm sau nữa cũng độ xuân về, lòng thương
nhớ không nguôi, Thôi Hội lại lần mò đến vườn xưa , chợt nghe tiếng khóc than
thảm thiết, hỏi ra mới biết, đó là tiếng khóc của cha Ðào Phụng Trinh. Nàng vì
thất tình nên mang bệnh trầm kha,trong cơn hấp hối, sau khi được đọc qua bài thơ
tỏ tình của Thôi Hộ. Cảm xúc trước cảnh đau lòng, nên chàng mong được gặp Ðào
Phụng Trinh lần cuối. Nhờ vậy nàng đã sống lại khi nghe tiếng chàng gọi mình,
thế là hai người đẹp duyên cầm sắc, giữa vườn đào đang nở rộ đón xuân sang.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tiên sinh cũng đã viết :
‘ Trước sân nào
thấy bóng người,
Hoa đào năm
ngoái còn cười gió đông ‘
Tóm lại danh từ ‘ má đào ‘ dùng để
chỉ những người đàn bà đẹp. Ngoài ra ‘ hoa đào ‘ còn tượng trưng cho tuổi thanh
xuân, của các cô gái sắp về nhà chồng , như Kinh thi đã viết :
‘ Ðào chi yên
yên
thước thước kỳ
hoa
chi tử vu quy
nghi kỳ thất gia
‘
Ý nói ‘ mơn mởn đào non, rực rỡ màu
hoa, cô đi lấy chồng, hạnh phúc trăm năm ‘.
2- MAI
VÀNG :
Tự ngàn xưa, Mai đã được xếp vào
loại hoa quý nhất trong ngàn hoa. Trong nhiều bức tranh cổ còn lưu truyền như
tranh Tứ Bình, vẽ bốn loại hoa cực quý là Mai, Lan, Cúc, Trúc. Ngoài ra còn có
tranh tứ thời, cũng vẽ bốn loại hoa cảnh nổi tiếng là Tùng, Cúc, Trúc, Mai hay
Lan, Sen, Cúc, Mai. Tóm lại dù con người qua các thời đại có thay đổi quan niệm
thưởng ngoạn thế nào chăng nữa, thì ta vẫn thấy có sự hiện diện của hoa Mai :
‘ Ðua chen thu
cúc, xuân đào
lựu phun lửa hạ,
mai chào gió đông ‘
(Bích Câu kỳ ngộ
)
Tại VNCH trước ngày 30-4-1975 có rất nhiều hoa
Mai nhưng nhiều nhất là hai tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận. Ở thủ đô Sài Gòn
vào những ngày sắp tết, Mai từ các tỉnh miền Trung như Ðà Lạt, Phương Lâm (Lâm
Ðồng) hay Nam Phần tại Sa Ðéc , đổ vào hàng trăm loại hoa. Giữa muôn hồng ngàn
tía, khoe hương sắc rực rỡ nhưng thiên hạ vẫn nườm nượp ùa tới những gian hàng
bán Hoa Mai, để tha hồ nhìn ngắm, lựa chọn những cành mai vàng năm cánh mỏng như
lụa, đang rung rung nhè nhẹ trước cơn gió thoảng. Ðây là người bạn lâu đời nhất
của Miền Nam, quanh năm sống heo hút trong rừng sâu, núi cao, chỉ những ngay
sắp Tết mới hiện diện vui xuân với mọi nhà. Ngày nay theo thời thượng, nên nhân
sinh đã tạo ra rất nhiều loại mai mới, có giống tới mười cánh, hai mươi cánh
với các màu sắc loè loệt trắng, vàng hay ghép đũ màu sặc sỡ lố bịch. Ðây là sản
phẩm tự chế của xã nghĩa thiên đàng, quen xét đời qua giá trị của sản phẩm vật
chất mà không cần biết tới cỏi hồn tinh khiết bên trong, dù đó là hồn nước, hồn
người hay hồn hoa thắm đượm.
Mai có thân hình khẳng khiu nhưng
cứng rắn mà vẫn ẻo lã duyên dáng , còn cánh hoa thì màu sắc thắm tươi, mỏng
manh cho đến khi lìa cành mà màu sắc vẫn không thay đổi. Mai được xếp đầu trong
muôn hoa, nở rộ trong những ngày đầu xuân ‘ tiên hưởng bạch hoa đầu thượng khai
‘.Mai cũng là đề tài muôn thuở, làm mê say đắm lụy tâm hồn văn thi sĩ, họa sĩ,
nghệ nhân bao đời. Nhờ vậy đã lưu truyền cho hậu thế nhiều tác phẩm nghệ thuật,
nói về Mai rất đặc sắc và trữ tình. Có điều tuy cùng ngâm vịnh hoa Mai nhưng âm
hưởng đã hoàn toàn khác biệt giữa giống Mai mà các văn nghệ sĩ VN ngâm vinh và
loài Mai Trúc trong nghệ thuật hội hoa, điêu khắc và ca tụng trong nền văn học
Trung Hoa
+ Hoa Mai Trong Văn Chương Cổ Điển :
Loài Mai này hoàn toan khác biệt với
giống Mai vàng đã có từ lâu đời tại Miền Nam VN. Giống Mai này có tên khoa học
là Prunus Mume, thuộc ho Hoa Hồng (Rosaleal). Mai này tương cận với cây Mơ, có
tên khoa học Prunus Armeniaca Lin, cũng như cây Ðào ( Prunus Persica Stokes).
Mai này có hoa năm cánh, màu trắng, hồng hay đỏ thắm, mùi thơm. Quả Mai lúc
sống màu xanh và biến thành màu vàng khi chín. Người Trung Hoa miền Quý Châu , đem
sấy khô thành quả Ô Mai hay Ô Môi và đem bán ở các thị thành VN mà chúng ta gọi
trại là Xí Muội. Những chữ Mai trúc trong văn chương cổ điển Trung Hoa, chính
là loại Mai này.
+ Mai Vàng Tại Miền Nam VN :
Giống Mai này có tên khoa học là
Dohna Harman, thuộc ho Hoàng Mai (Ochnaceae ). Mai vàng không thơm, quả chỉ nhỏ
bằng hạt đậu, khi còn tươi có màu xanh và biến thành màu đen lúc cây chết.,
không ăn được. Ngoài ra còn có một giống Mai thuộc họ Tre, thân dài thẳng đứng,
vỏ cây rất dày có nhiều đốt, lá to. Loại Mai này được đốn với tre đem về làm
nhà, ống đựng nước uống, nó hoàn toàn khác biệt với hai loài hoa Mai trên..
‘ Miệng ăn măng
trúc, măng mai
những tre cùng nưa
lấy ai bạn cùng ‘
(Phong dao VN)
Nhưng cho dù thuộc giống Mai nào chăng
nữa, thì Mai vẫn là một loài thực vật có thể chịu đựng được tuyết giá đông hàn,
luôn ngạo nghễ nở hoa, để chào đón chúa xuân, trong phút giây giao thời. Chính
cái bản sắc cuồng ngạo đó, đã lôi cuốn nhân sinh vào cuộc chơi. Ðó cũng vì Mai
chính là hiện thân của hàng Kẽ Sĩ, Trượng phu, anh hùng mã thượng, chịu đựng
tất cả dâu biển của cuộc đời, kể cả phong ba bão táp, để đạt cho được mục đích
cuối cùng ‘ lợi dân, ích nước, làm đẹp cho người ‘.Và cũng chỉ có Mai mới đủ
thực chất để đại diện cho lớp người chọc trời khuyấ nước, coi thường danh lợi
phú quý như phù vân, xem vua quan thối nát thua loài cỏ rác, coi bọn khoa bảng
trí thức xu thời, bợ thế, dua mị, nhắm mắt chạy theo lợi nhuận, chẳng khác nào
sâu bọ., cầm thú đội lớp người. Ðiển hình nhất trong lớp người, có Chu Thần Cao
Bá Quát, ông đã viết “
‘ Thập tái luận
giao cần cổ kiếm
nhất sinh đề thủ
bái mai hoa ‘
Như Ðào, hoa Mai cũng được các thi
nhân vay mượn, dùng làm đề tài , để diễn tả nét đài trang, thanh nhã của những
người đàn bà đẹp trong đời, qua các thời đại, như Nguyễn Du tiên sinh đã viết
trong ‘ Ðoạn Trường Tân Thanh ‘
Mai cốt cách,
tuyết tinh thần
một người một
vẽ, mười phân vẹn mười .
Yêu quí mai, trân trọng mai tới độ
bái phục mà các văn thi nhân còn chưa thấy là đủ, nên cuối cùng đã chọn mai làm
người bạn tri kỷ, để ra vào cùng đối ẩm, cận kề :
‘ nghêu ngao vui
thú yên hà,
mai là bạn cũ,
hạc là người quen ‘
+ Tao Nhân Mặc Khách Với Mai :
Chơi xuân mỗi người một cách nên hầu
như không giống ai cả, nhất là đối với hàng tao nhân mặc khách. Ðối với hạng
bình dân chất phác, khi lựa chọn một cành mai để vui ba ngày tết , thì chỉ cần
có nhiều hoa nở , đúng vào lúc giao thừa . Sau đó hoa vẫn tiếp tục nở rộ trong
ba ngày xuân, thế là đủ rồi, vì đối với họ, đó là niềm vui cũng như sự may mắn.
Nhưng với lớp người trưởng giả, thì khi chọn mai để thưởng thức phải là giống
to, cao, hoa lá xum xê, để chủ nhà biểu lộ với hàng xóm láng giềng , về sự giàu
sang sung túc của mình.. Tuy nhiên đối với hàng tao nhân mặc khách,nhất là giới
nghệ sỷ, thì mai không phải là loài vô tri, mà là một sinh vật có linh hồn,
chẳng thế mà thiên hạ đã cùng đồng tâm chấp nhận ‘ Mai là hoàng hậu của muôn
hoa ‘ .
Ái mộ, nưng niu, chiều chuộng nên
thi nhân bao đời đã nhân cách hóa và đặt tên cho Mai nhiều mỹ danh vô cùng diễm
le. Do đó với loài Mai có màu trắng như ngọc tuyết tinh khôi, thì gọi là Bạch
Mai, Chi Mai hay Mai Ngự Sử. Với loài Mai có màu xanh, thì được đặt tên là Mai
Thanh Ðài. Còn Mai có màu vàng thì gọi là Hoàng Mai hay Lạp Mai , vì loại mai
này chỉ nở vào những ngày cuối đông mà thôi. Ngoài ra còn nhiềi loại Mai khác
như Hồng Mai (màu đỏ), Mai Thanh Ðài Lục Ngạc (Hoa mai có 6 cánh đan chéo vào
nhau như sừng nai, màu xanh), Mai Chuỗi (màu tóm có hoa và trái kết thành
chuỗi), Mai Chiếu Thủy (màu trắng, cánh nhỏ, thường rũ nghiêng xuống mặt nước),
đầy là loại mai quý hiếm.Cuối cùng là Mai tứ Thời có hoa suốt năm, bốn mùa.
Hiện không có tài liệu nào xác nhận
thời gian đầu tiên loài Mai xuất hiện trên trái đất. Nhưng cái tên Mai lại được
giải thích rằng : có một loài hoa rất gai gốc chịu đựng cảnh băng giá mưa đông,
để kịp nở hoa vào buổi giao thời , giữa năm cũ và năm mới. Hoa có năm cánh ,
kết thành một vòng tròn , biểu tượng ánh thái dương đang tỏa nắng ấm tới nhân
gian vào buổi sớm đầu xuân. Với các đặc tính đó, loài hoa này mới được gọi là
Hoa Mai. Ngoài ra liên quan tới giống hoa này, xưa nay đã có rất nhiều điển
tích liên hệ như :
+ Trúc Mai Vì bán mình để có tiền chuộc mạng cho cha mẹ,
nên Thuý Kiều phải theo gã Mã Giám Sinh về Lâm Tri. Ðêm đó một mình nàng ôm mặt
khóc với bóng đèn khuya, , nhớ đến người tình đang ngoài muôn dặm là Kim Trong,
mà đứt ruột nát hồn. Ðể diễn tả hoàn cảnh bi thiết đó, Nguyễn Du tiên sinh đã mượn
điển tích ‘ Trúc Mai ‘ và viết :
‘ Tái Sinh chưa
dứt hương thề
làm thân trâu ngựa
đền bù Trúc Mai ‘
Trúc-Mai là hai loại cây vẫn xanh
tốt trong mùa đông băng giá. Ðặc tính của hai loại cây này là ‘ Trúc bất chỉ
thiên, Mai bất chỉ địa ‘, đó là một sự hòa hợp âm dương rất tuyệt diệu. Ngoài
ra rheo sách ‘ Lưỡng bạn thư vũ tùy bút ‘ có viết câu chuyện Trúc Mai như sau :
Vào mùa đông, các tao nhân mặc khách thường tới Ðầm Long Môn tại tỉnh Quảng
Ðông để thưởng ngoạn, vì tại đây có rừng Trúc-Mai vẫn tươi tốt trong cảnh tuyết
băng giá buốt lạnh lẻo. Tại đây, có hai giai nhân tài tử tên Hoàng Kỳ Mai và
Lam Bá Trúc được dịp quen biết rồi yêu nhau tha thiết. Nhưng rồi cũng phải chia
tay, trước giờ phân kỳ Lam Bá Trúc đã bẻ một cành Mai còn Hoàng Kỳ Mai thì dùng
một nhánh trúc, để làm kỷ vật trao đổi, thệ nguyện nên cuối cùng đã toại
nguyện. Từ đó để nói tới tình yêu trai gái, vợ chồng, người đời sau hay lấy điển
tích ‘ Trúc Mai ‘ để diễn tả.
+ Nhất Chi Mai : Ðiển tích này được trích từ tập ‘ Kiến Văn
Tiểu Lục ‘ của Lê Quý Ðôn, nói về đời tư của Hồ Quý Ly. Theo sách cho biết tổ
phụ ông là người Tàu, vì loạn lạc nên mới di cư sang Ðại Việt. Lớn lên đi tìm
công danh, nên Quý Ly đã bỏ làng quê tới kinh đô Thăng Long. Trên đường vô tình
ông lượm được một quyển sách tên ‘ Quảng Hàn Cung Lý Nhất Chi Mai ‘ nên mở msng
được nhiều kiến thức chính trị quân sự. Về sau Ông được vua Trần Nghệ Tông
trọng dụng , nên thăng quan tiến chức rất nhanh. Một hôm nhân các triều thần
hội họp trong cung vua, Nghệ Tôn mới chỉ vào rừng quế, quanh điện Thiên Thủ, ra
một câu đối :
‘ Thanh thủ điện
tiền thiên phụ quốc ‘
Trong lúc các quan chưa kịp ứng đối,
thì Quý Ly chợt nhớ tới nhan đề của cuốn sách mà trước đây mình đã vô tình lưọm
được, nên dối ngay :
‘ Quảng Hàn cung
lý Nhất Chi Mai ‘
Nhà vua cho đó là duyên kỳ ngộ, nên đã
đem công chúa gả cho Quý Ly. Từ đó họ Hồ mới có cơ hội xây dựng thế lực và vây
cánh, cướp ngôi nhà Trần sau khi Thượng Hoàng Nghệ Tông mất.
+ Mai Trường An : Còn có tên là
Mai Tứ Quý là giống Mai nở hoa bốn mùa. Ðiển tích ‘ Mai Trường An ‘ được rút ra
từ câu chuyện nàng TâyThi, cô gái nước Việt, đã giúp cho Vua Việt Câu Tiễn, đánh
bại Ngô Phù Sai, rửa nhục và thu hồi lại đất nước đã mất. Ðiển tích trên, đồng
thời cũng nhắc tới câu chuyện nàng Dương Thái Chân, tức là Dương Quý Phi ái
thiếp của vua Ðường Minh Hoàng. Thời đó có Lục Khải làm quantại Giang Nam, nhân lính
trạm mang thư tín về kinh đô Trường An, nên ông đã bẻ một cành Mai, để gửi về
tặng bạn là Phạm Việp, trong đó có kèm theo một bài thơ :
‘ Chiết Mai
phùng dịch sứ
Ký dữ lũng đầu
nhân
Giang Nam vô sở hữu
Liễu tặng Nhất
Chi Mai ‘
Quá cảm động và càng thương quý bạn
nên Phạm Việp đã đem cành mai đó trồng và sau đó Mai có hoa nở cả bốn mùa. Sau
này các văn thi sĩ thường mượn loài Mai trên, tức Mai trường An, để nói về nhan
sắc chim sa cá lặn của các giai nhân nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa, nhất là
Tây Thi và Thái Chân.
3 - MAI
VÀ THƠ VĂN :
Xưa nay, những người
thoát tục ngoại hạng, thường ưa thích hoa Mai, vì cho đó là một biểu tượng cao
quý của hạng Sĩ phu, Quân tử. . theo quan niệm của Nho
giáo. Thật vậy, với thái độ sừng sững giữa trời mưa gió. Trong cõi trời đất gần
như hư vô bát động này, Mai đã rụng hết lá, chỉ còn lại thân cây trơ trọi . Thế
rồi những ngày cuối chạp sắp Tết, bỗng dưng khắp thân Mai, tràn đầy lá xanh và
búp nở. Tất cả như đợi chờ một khoảnh khắc giao mùa của trời đất, mới chịu mãn
khai.
Ðứng trước nổi thế thái biển dâu của
nhân tình và vạn vật, Mãn Giác Ðại sư (1045-1096) , một cao tăng thời Lý, đã
viết bài kệ ‘ Cáo Tật Thị Chúng ‘, rất nổi tiếng nên được lưu truyền tới ngày
nay :
‘ Xuân qua trăm
hoa rụng
xuân tới trăm
hoa tươi
trước mắt việc đi
mãi
trên đầu già đến
rồi
chớ bảo xuân tàn
hoa rụng hết
đêm qua sân trước
nở cành mai ‘
Ðây cũng chính là một thông điệp vô
cùng trân quý, mà Thiền sư đã gởi lại cho hậu thế VN, với lời nhắn nhủ thật
chân thành, khuyên bảo mọi người ‘ phải kiên trì để mà sống, không cần sợ hãi
bất cứ một nghịch cảnh nào, giống như đêm qua sân trước nở cành mai, dù ai cũng
nghĩ rằng xuân tàn hoa rụng hết ‘.
Còn nhà sư Tế Kỷ sống vào thời Nhà Ðường,
đã mượn cớ ‘ Tảo Mai ‘, để làm một bài thơ, cũng có ý tưởng rất cao siêu như
THiền sư Mãn Giác, khuyên mọi người phải sống kiên trì, giống như Hoa Mai, mới
mong thành tựu :
‘ Vạn mộc đông
dục chiết
cô căn noãn độc
hồi
tiền thân thâm
tuyết lý
tạc nhật nhất
chi khai ‘
Bài thơ cho biết là trong lúc muôn
cây sắp chết cóng, riêng có Mai thì rể đang trở mình, giữa cảnh tuyết băng giá
lạnh, chợt đêm qua Mai nở hoa.
Trong văn chương cổ điển Trung Hoa,
Ðại Ðường và Bắc Tống là hai thời đại rát thịnh hành về lối thơ Thất Ngôn ngâm
vịnh. Ðặc biệt thời Bắc Tống, có rất nhiều tao nhân mặc khách nổi tiếng, cũng
không thua kém gì các thi thần, thi bá Lý Bạch, Ðổ Phủ, Bạch Cư Dị.. đời nhà Ðường.
Cũng vì vậy, họ đã lưu lại chohậu thế rất nhiều bài thơ ‘ Vịnh Mai ‘ vô cùng đặc
sắc. Trong số này đáng kể nhất có Lam Pha, suốt đời chỉ mê đắm Hoa Mai mà thôi,
chứ không hề ngó tới đàn bà, dù đó là những người đẹp nổi tiếng tại kinh đô
Biện Kinh (Khai Phong). Với Vương An Thạch (1021-1086) , tể tướng thời Tống
Thần Tông, chủ trương Tân Ðảng, lừng lẫy một thời trên trường chính trị cũng như
trong văn đàn, đã lưu lại cho hậu thế nhiều trước tác giá trị, trong đó có bài
thơ ‘ Mai Hoa ‘, rất được nhiều người ưa thích :
‘ Tường dốc sổ
Chi Mai
Lăng Hàn độc tự
khai
dao tri bất thị
khuyết
dữ mai tinh tác
thập phần xuân ‘.
Ý thơ muớn nói, nơi góc tường mấy
nhánh mai, tự nở hoa trong rét, xa nhìn không phải tuyết vì có hương thầm bay.
Riêng Lư Mai Pha, thì chẳng những ca
tụng Mai, mà ông còn đề cao cả tuyết và thơ. Theo quan niệm của ông, cho rằng
người đời, bất cứ là ai, nếu đã sẵn có trong tay ba thứ trên, coi như họ đã có
một trời xuân hạnh phúc :
‘ Nhật mộ thi
thành, thiên hữu tuyết
dữ Mai tinh tác,
thập phần xuân ‘
Ý ông nói là vừa làm xong bài thơ
thì đêm tới, trong lúc ngoài trời đầy tuyết, còn nơi góc nhà Mai cũng nở hoa,
coi như ta đã hưởng trọn vẹn mời phần xuân rồi.
Mao Ngọc Long là con gái quan Ngự sử
Mao Phụng Thiều, có chồng đã hy sinh ngoài sa trường, nên ở vậy thủ tiết làm người
sương phụ. Một mùa đông nọ, ngồi bên song cửa, nhìn tuyết đang rơi lã chã ngoài
sân, chợt thấy cành mai lẻ loi đang khép nép dưới mái hiên lạnh, vừa nở rộ một
cánh hoa trong cơn buốt giá. Nhìn cảnh sinh tình, thêm tủi phận cô đơn góa bụa
của mình, nên nàng đã viết bài thơ ‘ Ðông Dạ ‘, để gửi gấm tâm sự u hoài của đời
người sương phụ :
‘ Thùy liêu tịch
mịch, thư song hạ
Ðấy ảnh Mai Hoa,
loạn dạ đăng ‘.
Sau này các Họa sĩ cũng theo gót các
văn nhân thi sĩ nhập cuộc. Trong số này có Trọng Nhân, đã dùng mực nước, vẽ môt
cành Mai với hai màu đen trắng, ai cũng khen là Hoa có hồn. Ðời nhà Minh có Vương
Ðiệu ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, chuyên vẽ Hoa Mai Tây Hồ, với những nét u
hoài lãng mạn nhưng cũng không kém phần mạnh mẻ, với nụ hàm tiếu đang mãn khai
vô cùng duyên dáng, trữ tình. Hàng Châu từ lâu đời đã kinh đô của Nhà Nam Tống,
vùng đất nổi tiếng về Trà và sản xuất tơ lụa. Vì vậy các nghệ nhân đã đem Mai
in trên tơ lụa, mà nổi tiếng nhất vẫn là những hình vẽ vè loài ‘ Ẩn Mai ‘, do Vương
Ðiệu sáng tạo, với khung cảnh như không như có, hấp dẫn lạ lùng.
Nhưng người nổi tiếng nhất khi vẽ
Hoa Mai, trong nền hội họa cổ điển Trung Hoa, từ xưa tới nay vẫn được công
nhận, vẫn là Vua Tống Huy Tông (1100-1125), thời Bắc Tống vì ham vẽ, mê chơi,
lại tin nghe bọn nịnh thần như Sài Kính, Trương Ban Xương.. làm cơ nghiệp nhà
Tống đổ nát vào giặc Kim ở phương Bắc. Năm 1127, vua lúc đó là Thượng Hoàng,
cùng với vua Khâm Tôn và nhiều triều thần, đã bị nước Kim bắt đem về giam giữa
tại Nội Mông và chết ở đó. Tuy vua Huy Tông chỉ sống rất ngắn ngủi (1108-1135)
nhưng ông đã lưu lại cho hậu thế rất nhiều tranh vẽ giá trị, trong số này có
bức danh họa ‘ Kết năm màu trên nhành Mai ‘, hiện được trưng bày tại Viện Bảo
Tàng Boston (Hoa Kỳ).
Bây giờ mọi người mới hiểu tại sao
thời Nhà Tống, ai cũng thích Hoa Mai hơn các thời đại khác trong lịch sử Trung
Hoa. Theo sử liệu, cho thấy nhà Tống rất yếu về quân sự , so với các nhà Hán, Ðường
và Minh. Do trên đất nước Tàu, từ thời Tống Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) lập quốc
năm 916, cho tới đời Vua cuối cùng là Ðế Bình, thị bị Mông Cổ tiêu diệt năm
1279, luôn luôn bị các nước Liêu, Kim, Tây Hạ, Thổ Phồn, Mông Cổ, Ðại Lý và Ðại
Việt .. tấn công, xâm lấn. Do trên các bậc văn nhân, thi sĩ kể cả họa sĩ và
nhất là giới sĩ phu trí thức, thường lấy Hoa Mai làm biểu tượng tinh thần của
người anh hùng trong thời loạn ly lửa khói, để đề cao dũng khí, sự tinh khiết
cùng lý tưởng cứu dân, giúp nước của mọi người. Do trên, thời nhà Tống mới có
nhiều thơ văn và họa phẩm nổi tiếng về Hoa Mai.
Tóm lại hiện có hai loài Mai, một
của Trung Hoa đã xuất hiện từ thời thượng cổ, mà kinh thi đã từng đề cập. Riêng
về giống Mai Vàng nổi tiếng của VN, tới nay vẫn chưa truy tìm được xuất xứ,
cũng như thời gian ban đầu Mai xuất hiện. Tuy nhiên Mai vàng chỉ mọc ở Miền Nam
VN, nhiều nhất trong hai tỉnh Quảng Nam và Bình Thuận. Theo Vương Hồng Sẻn,
viết trong ‘ Sài Gòn năm xưa ‘, thì miệt Sài Gòn chỉ có giống Mai Trắng, mọc
rất nhiều tại Thứu Lãnh Tự (Chùa Cây Mai), Gò Mai và Phụng Sơn Tự (Chùa Gò).
Cũng theo tác giả, thì giống Bạch Mai này, được đem từ Cao Mên về trồng.
Tương truyền khi còn cầm quyền, vua
Chế Mân đã lập vườn Mai Uyển ở Cà Ná là ranh giới giũa hai tỉnh Ninh Thuận và
Bình Thuận hiện nay. Tại đây Vua cùng với Hoàng hậu Paramervan (Công chúa Trần
Huyền Trân của Ðại Việt), tới dạo chơi và thưởng ngoạn các loại hoa quý trong vườn,
nhất là Mai. Tại đậy Hoa Mai có nhiều loại, từ Hồng Mai, Bạch Mai hai tầng có
cánh rất lạ, cho tới loại Hoàng Mai có cánh vàng, mỏng mà ta thường thấy trong
dịp Tế. Hiện chiến tranh đã tàn phá tất cả, dù cảnh vẫn còn đó.
Giờ thì lặng yên trong những ngày tết
sắp tới nơi xứ người, bổng thèm một cành Mai, để bắt chước người dân nước Tống
thuở nào, mượn Mai dục hồn người vong quốc, xa nhà, sống đời lưu vong buồn sầu đứt
ruột. Nhưng hỡi ơi tất cả các loài hoa ở đây, như đã bỏ ta đi trốn. Càng não
nùng hơn là những con đường thơ mộng của Hạ Uy Di ngày nào, nay chỉ còn đầy gió
và lá rụng, làm thêm đau điếng khi nhớ tới những ngày xuân thơ ấu ở quê làng. Ở
đây tết người đã tan đêm hội, nên chỉ còn lại có những cơn mưa năm mới, làm nhớ
tới ngày nào cũng trong cơn mưa, ta đã vuốt tóc em ướt sũng nước mưa, mà cứ tưởng
đó là ngàn vạn đoá mai vàng mừng mùa xuân diễm tuyệt của hai đứa mình.
Lại thêm một tết quê người -/-
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2016
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment