Ngày ấy
Cái tựa đề bài viết này nghe lớn chuyện vậy chớ thật
ra không có gì to tát đâu; tôi chỉ mô phỏng anh
Nguyễn Duy Sâm sau khi đọc bài viết “Thầy Vĩnh Giêng
và Tôi” của anh do nhà thơ nhà biên khảo Mường Giang
chuyển tiếp thôi.[1]
Trong đời mỗi người có nhiều dịp hoặc nhiều sự kiện
để mình nhớ, nhưng tôi cho là mình thường nhớ nhiều
nhất những kỷ niệm thời Trung học. Với tôi, đó là
quảng thời gian đẹp nhất trong đời tôi được là học
sinh của Trường Trung học Phan Bội Châu Phan Thiết.
Dường như thời Trung học chính là thời hoàng kim
trong thế giới tình cảm của mỗi con người; lúc đó
mình không còn ở tuổi nhi đồng vô tư lự như của thời
Tiểu học nữa mà đã bước vào tuổi thiếu niên. Trong
thời gian học Trung học, chúng ta lớn lên, về cả mặt
tâm lý và sinh lý chúng ta có những biển đổi quan
trọng, kèm với sự xuất hiện mới của những cảm xúc và
cảm nhận không còn đơn giản như trước kia. Ngày hai
buổi tiếp xúc gần gũi với các bạn dưới cùng mái
trường thân yêu năm này qua năm khác (hồi đó trường
học ngày hai buổi), khiến mình nảy sinh những tình
cảm thân thiết với trường với bạn. Đó là thời mình
sống nhiều bằng cảm xúc mà hồi còn ở tiểu học mình
chưa có được. Dù bộ óc phát triển thêm nhiều nếp
nhăn nho nhỏ do kiến thức mới học được ở nhà trường
mang lại, nhưng trái tim mình vẫn còn mềm mại để sẵn
sàng rung đập một cách rộn ràng; lòng mình vẫn còn
ngây thơ ngơ ngác trước những điều mới lạ. Có lẽ
chính trong quảng thời gian này, phần lớn chúng ta
bắt đầu trải nghiệm những biến động mới trong tình
cảm, trước hết là tình cảm tôn kính các thầy cô vốn
đã sẵn có trong lòng mình từ những năm tiểu học, thứ
đến là với bạn. Ngoài tình bạn học bình thường từ sự
giao tiếp với nhau hàng ngày, từ đây xuất hiện một
thứ tình cảm mới thường là với một cô /anh bạn dễ
thương trong lớp; một thứ gì đó “giống như là tình
yêu”, hoặc một thứ tình yêu non nớt lãng mạn đầu đời
nhưng vô cùng ngọt ngào thơ mộng. Những biến động
tinh thần mới mẻ đó tạo một thứ men say mà “nghìn
năm hồ dễ mấy ai quên.” Trang lụa trắng của tâm hồn
tôi được vẽ lên những hoa bướm rực rỡ đầu tiên ở đó,
dưới mái trường Trung học Phan Bội Châu. Và cũng ở
đó tôi bắt đầu làm thơ. Những kỷ niệm ngọt ngào từ
quảng thời gian đó gắn bó với bản thân tôi sâu đậm
hơn những thời kỳ khác sau này. Có lẽ dễ hiểu khi
hàng năm chúng ta thường tổ chức những cuộc họp mặt
bạn bè thời trung học mà không có nhiều những cuộc
họp mặt bạn bè thời tiểu học hay đại học.
Tôi không phải là người sinh trưởng ở Phan Thiết.
Quê tôi là làng Bình Thạnh có thắng cảnh Chùa Hang (Cổ
Thạch Tự), thuộc Quận Tuy Phong. Ngôi làng nhỏ ven
biển từng là một ổ du kích trong thời kháng chiến
chống Pháp, bị quân Pháp tàn phá đến tiêu điều. Toàn
bộ dân làng bị buộc phải bỏ nhà cửa tản cư nơi khác,
chủ yếu là qua sống ở làng Long Hương bên Quận cho
đến sau năm 1954 mới lác đác có người hồi hương.
Do làng mới hồi cư còn hoang phế, chưa có trường học,
trẻ con trong làng muốn đi học phải qua Long Hương ở
trọ nhà người quen hoặc nhà thân nhân của gia đình
còn trụ lại ở đó để theo học tại Trường Tiểu học (công
lập) duy nhất trong Quận. Có lẽ do sự bất tiện này
mà số trẻ con trong làng tôi thời đó được đi học đến
hết bậc tiểu học là không nhiều, và số học sinh đi
xa hơn cái trường Tiểu Học Long Hương chỉ đếm chưa
hết số ngón trên một bàn tay! Cụ thể, nếu tôi nhớ
không sót người nào, con số đó là… bốn người, mà chỉ
có “năm mươi phần trăm” trong số đó về sau trở thành
học sinh của Trường Trung học Phan Bội Châu Phan
Thiết – ngôi trường Trung học công lập duy nhất của
toàn tỉnh Bình Thuận, vào năm tôi thi vào lớp Đệ
Thất trường này. Tôi là người thứ hai của năm mươi
phần trăm đó. Người thứ nhất là anh NBD, con của ông
bác họ của tôi. Anh NBD có đầy đủ ba ưu điểm quý giá
mà không những con trai, ngay cả con gái thời nào
cũng ham chuộng: con nhà giàu, đẹp trai, và học giỏi.
Nhà bác họ tôi rất khá giả. Anh được đi học là điều
được nhiều người trong làng cho là đương nhiên,
không ai so bì gì; và anh thi đậu vào trường Phan
Bội Châu cũng không ai cho là chuyện lạ. Tôi không
có chút gì sánh được với người anh họ hiền lành đáng
mến này.
Tôi có hai đứa em, chúng tôi mồ côi cha rất sớm. Tôi
không nhớ được mẹ tôi đã dựa vào nguồn lực hay phép
màu nào mà trước đó đã cho hai đứa con trai đi học
bên Quận, bởi nhà tôi nghèo. Chuyện cho con đi học
này đã bị nhiều người trong làng xầm xì cho rằng sau
này chúng tôi sẽ là những đứa “lỡ thầy lỡ thợ”. Làng
xóm điêu tàn sau chiến tranh, người ta nghèo khổ quá
nên phải thực tế. Biển ở ngay trước nhà, cho con ra
biển “kéo hôi” kéo lưới cho người ta cũng kiếm được
con cá mà ăn. Học cho nhiều về làm gì? Có tránh khỏi
cái “đai” kéo lưới trên lưng không? Vậy mà mẹ tôi
lại cho tôi vào Phan Thiết thi vào lớp Đệ Thất
trường Trung học công lập Phan Bội Châu! Lý do duy
nhất của mẹ: mẹ không có tiền cho con học trường tư!
Thế rồi tôi đi thi. Tôi đi một mình. Người anh họ
của tôi đã học trước tôi một năm. Thi xong thì trở
về nhà ở Bình Thạnh. Một tháng sau đó, tôi và một cô
bạn người Long Hương cùng vào Phan Thiết để tập
trung đi dự kỳ trại hè bảy ngày tại Nha Trang do Bộ
Quốc gia Giáo dục tổ chức dành cho học sinh giỏi bậc
Tiểu học trong năm đó. Cô bạn đứng đầu lớp Nhất A,
tôi lớp Nhất B trường Tiểu học Long Hương. Cô bạn
không học tiếp nữa. Con gái học thế là đủ, sau trại
hè bạn sẽ ở nhà đợi… lấy chồng. (Hồi đó hầu hết học
sinh tiểu học đều lớn hơn vài năm, thậm chí ba hay
có trường hợp bốn năm, so với mức tuổi qui định ngày
nay)
Trong buổi chiều tập trung ở Trường Nam Tiểu học để
tối hôm đó lên xe lửa đi ra Nha Trang, tôi được biết
tại Trường Phan Bội Châu đã công bố kết quả kỳ thi
vào lớp Đệ Thất vừa rồi; nhiều bạn người Phan Thiết
cùng dự trại hè đã vui mừng biết mình trúng tuyển.
Vì đây là lần thứ nhì từ quê lên tỉnh, tôi không
biết đường đi từ Trường Nam tiểu học đến Trường mới
PBC, nên đành bứt rứt trong suốt thời gian đi trại
hè, không biết mình đậu hay không.
Khi từ trại hè trở về, tôi và cô bạn xuống xe lửa
tại ga Song Lòng Song để về nhà chớ không vào Phan
Thiết, cho nên tôi vẫn không biết kết quả thi của
mình. Tuy vậy, sắp đến ngày khai trường, tôi vẫn tự
tin xách va ly vào Phan Thiết. Sau khi có được chỗ ở
trọ ổn định, tôi đến Trường xem kết quả thi. Hỡi ơi,
bản kết quả đã bị ai xé đâu mất từ bao giờ, mà
trường vắng hoe không có thầy cô nào cho tôi hỏi.
Thế nhưng đến buổi sáng ngày khai giảng, tôi cũng ôm
cặp vở đến ngôi trường Phan Bội Châu mới xây cất
khang trang ngoài bìa thị xã Phan Thiết. Tôi vào văn
phòng hiệu trưởng, hỏi đại một ông thầy đang cầm một
xấp giấy tờ trên tay:
“Thưa thầy, thầy xem giùm con có đậu không, thầy?”
Ông thầy há miệng nhìn tôi từ đầu đến chân. Cậu học
trò nhà quê, trong chiếc áo sơ mi trắng mới với cái
quần … pyjama và đi chân đất đang rụt rè đứng trước
mặt ông dường như khiến ông ngạc nhiên. Tuy vậy ông
cũng thân mật vỗ vai tôi hỏi lại:
“Sao tới giờ này mà em còn chưa biết mình có đậu hay
không?”
“Thưa thầy quê con ở xa lắm, mà con không có người
quen ở trong này để nhờ đi xem giùm…”
“Em tên gì?” Ông dở xấp giấy trên tay vừa hỏi:
“Thưa thầy con tên Nguyễn Huỳnh Điệp.”
Tôi hồi hộp nhìn ông dò trong tờ giấy này, rồi tìm
trong tờ giấy khác trong xấp giấy của ông.
“Có đây,” ông cười rất thân thiện chia vui với tôi.
“Nguyễn Huỳnh Điệp, số ký danh… Em có đậu rồi đây…
Thứ 80 nhé. Chúc mừng em.”
Tôi mừng rỡ: “Con cám ơn thầy.” Thế là tôi có hạnh
phúc thuộc trong số hai trăm học trò mới của trường,
trúng tuyển cuộc thi vào lớp Đệ Thất năm đó.
Thế mà sau này tôi lại không nhớ đó là ông thầy nào.
Thầy Toại chăng? Thầy Toại là giám thị, và không dạy
giờ nào, nhưng tất cả học sinh trong trường đều gọi
ông bằng Thầy. Có lẽ đó là ông thầy hiền hậu, chân
chất và “dễ thương” nhất của trường Phan Bội Châu.
Tôi đã trở thành học sinh trường Trung học Phan Bội
Châu Phan Thiết như thế. Lớp Đệ Thất 2. Rồi tiếp tục
Lục 3, Ngũ 3, Tứ 3, Tam B3… Còn cái chuyện quần
pyjama và đi chân đất của tôi đã khiến tôi biết thầy
Vĩnh Giêng sau đó.
Ngay trong ngày khai giảng, nhà trường đã phổ biến
quy định về đồng phục học sinh: quần “tây” xanh, áo
sơ mi trắng, đóng thùng, có thể mang xăng-đan hay
dép. Đó là điều mới lạ khiến tôi rất bối rối.
Học trò tiểu học nhà quê chúng tôi hồi đó chưa có
đồng phục. Hoàn toàn không có đứa nào mang giầy và
dường như cũng không có mấy đứa mang dép thì phải.
Con đường từ làng tôi qua Long Hương dài bẩy cây số
toàn cát, giữa trưa cát nóng bỏng rộp bàn chân, mà
chẳng thấy ai mang guốc hay dép, huống chi học trò
đi học: ở trường đâu có cát nóng chân! Nếu phải đi
trên con đường cát nóng ấy vào giữa trưa nắng gắt,
người ta chỉ cần bẻ một chùm lá nhãn hay lá sò đo
dọc đường cầm tay là đủ để đi từ làng đến Quận, từ
Quận về làng. Khi nóng chân quá, thì bỏ chùm lá
xuống và đứng lên đó một lúc cho bớt nóng rồi lượm
nắm lá lên đi tiếp. Không có lá thì dẫm lên một bụi
cỏ còi cọc nào đó bên đường. Nhưng mà như thế dễ dẫm
phải gai xương rồng hoặc, nhất là, gai “vạn cổ sầu”!
Tôi không nhớ mất bao lâu thì chuyện đồng phục của
đám học sinh mới chúng tôi đi vào nề nếp, nhưng
trong thời gian đầu cái việc mặc áo bỏ trong quần
khiến tôi… mắc cỡ. Nó “trịnh trọng” quá, tôi chưa
quen. Tôi mặc áo bỏ ngoài quần từ nhà đi đến trường.
Chỉ sau khi đến tại cổng trường tôi mới nhét vạt áo
vào trong quần trước khi vào cổng. Tôi bắt gặp vài
bạn khác cũng làm như thế. Có lẽ các bạn ấy cũng từ
nhà quê lên tỉnh lần đầu như tôi. Thì ra chuyện “cả
quỷnh” này không chỉ riêng tôi. Trong bài thơ “Với
bạn học ngày xưa chưa gặp lại” tôi có ghi lại kỷ
niệm này:
Trò quê ra tỉnh còn chân đất
Đồng phục chưa quen áo đóng thùng…
Trong một tấm ảnh lớp tôi thời đó còn thấy nhiều đứa
ăn mặc rất lộn xộn: đứa quần dài, đứa quần “soọc”,
phần lớn quần “tây” trắng, có đứa quần đen (do ảnh
trắng đen, chắc là quần xanh đậm), đứa mang xăng-đan,
đứa mang dép. Anh bạn LVN, một giáo sư toán tương
lai, dấn một cái quần soóc, với đôi bata trắng và vớ
trắng. Tuy nhiên tất cả đều áo đóng thùng.

Một hôm, đến giờ tan học, học trò chúng tôi trên lầu
đang đổ xuống cầu thang, tôi chợt nghe có đứa la hốt
hoảng:
“Thầy Giêng! Thầy Giêng!”
Vài đứa thối lui không xuống cầu thang. Tôi ngạc
nhiên: Thầy Giêng thì sao? Tôi chưa biết ông thầy
Giêng là ông nào. Mà sao chớ? Tôi cứ tiếp tục xuống.
Xuống hết cầu thang thì tôi hiểu ra: Thầy Vĩnh Giêng
là Giám học của trường. Ông đang chận bắt những đứa
học trò đi chân đất!
Thầy chỉ vào tôi, hỏi lớn: “Dép đâu?”
Tôi ú ớ nhưng kịp phản ứng khá nhanh: “Thưa thầy,
guốc con mới đứt quai còn một chiếc, con bỏ lại trên
lớp.”
Vậy mà tôi thoát. Hồi đó một số học sinh nam mang
guốc mộc, hoặc cũng gọi là guốc vông. Có mấy đứa
cũng chân đất như tôi, bị bắt đứng lại đó, không
biết ra sao. Tuy nhiên, tôi không mừng mình “may mắn”
hơn các “can phạm chân không” ấy, mà tôi mắc cỡ: Sao
tôi có thể nói dối tự nhiên đến thế? Mãi sau này và
tới bây giờ, bảy mươi tuổi rồi tôi vẫn còn mắc cỡ
với câu nói dối đó.
Cái dở của Thánh nhân
Trong số các tác phẩm của học giả Thu Giang Nguyễn
Duy Cần trước kia, nếu tôi nhớ không lầm, có một
cuốn sách có nhan đề “Cái Dũng của Thánh Nhân”. Cái
tựa sách cho biết nội dung cuốn sách. Sự dũng cảm,
dù của một người bình thường đã không phải là dễ cho
mình học theo. Cái dũng của những bậc thánh nhân thì
mình càng không thể nào học được.
Dường như cũng chính học giả ấy, trong một cuốn sách
khác đã nói rằng “Cái ngu của người xưa dạy ta nhiều
hơn cái khôn của họ.” Tôi cho câu nói này là thật
hay, thật chí lý. Khó bắt chước cái khôn của bậc
thánh nhân, nhưng ta có thể tránh lập lại những điều
dở mà họ đã làm. Cái sai lầm của họ cảnh báo ta
tránh phạm phải cùng những điều tương tự.
Cũng như mọi đứa học trò nói chung, tôi rất biết ơn
các vị thầy cô đã dạy dỗ tôi từ tiểu học cho đến đại
học, trong đó các giáo sư của trường Trung học Phan
Bội Châu là tôi nhớ hơn hết, với niềm kính trọng
chân thành. Nhưng cũng rất tiếc, một vài giáo sư
Phan Bội Châu đã vô tình gây trong lòng tôi những
vết thương mà bây giờ vào tuổi thất tuần nhớ lại tôi
vẫn lấy làm tiếc. Tôi rất thông cảm với anh Nguyễn
Duy Sâm về nỗi hận bị thầy Giêng tát tai. Chính tôi
cũng từng bị thầy hiệu trưởng Lê Tá đánh một cách
oan ức như anh Sâm vậy. Tôi còn bị nhiều hơn anh Sâm
nữa.
Ngay vào đầu năm học Đệ Thất, một buổi trưa tôi đến
trường rất sớm trước giờ học. Đó là thói quen của
thời tiểu học ngay trước đó. Có lẽ do hồi đó không
có nhiều trò chơi cá nhân nên bọn học trò tiểu học
thường đến trường rất sớm vào buổi trưa để túm tụm
chơi với nhau. Hôm đó có nhiều học sinh đã đến trước
tôi, đang chơi bóng bàn tại hai cái bàn “banh bong”
đặt ở dãy nhà ngang phía trong. Tôi không biết chơi
(dân nhà quê mà), nhưng cùng với những đứa khác đến
xem họ chơi. Trận đấu khá hào hứng nên các đấu thủ
vừa chơi vừa la hét rất náo nhiệt. Tôi vốn là chú bé
quê mùa, chưa hiểu được kỹ thuật và cái hay của môn
thể thao này, nên chỉ chăm chú nhìn chớ không cổ vũ
cho bên nào. Bỗng dưng tất cả đám khán giả lẫn các
đấu thủ rùng rùng bỏ chạy hết, chỉ còn mình tôi ngơ
ngác đứng lại. Tôi chưa kịp hiểu tại sao thì trước
mặt tôi đã xuất hiện một người đàn ông đậm người
trong bộ quần áo pyjama, hai bàn tay thủ trong hai
túi áo ngủ, mặt giận hầm hầm bước xốc tới. Tôi vừa
kịp nhận ra thầy Hiệu trưởng thì cái tát của thầy đã
đánh vào mặt tôi. Tôi vốn chỉ quen với hình ảnh thầy
Hiệu Trưởng “mặc đồ Tây” thắt cà vạt trịnh trọng chớ
chưa thấy thầy mặc đồ ngủ bao giờ nên không nhận ra
thầy từ xa. Mà dù nhận ra, có lẽ tôi cũng không bỏ
chạy như các bạn kia: Họ là thủ phạm đánh bóng bàn
và la hét phá giấc ngủ trưa của thầy, chớ có phải
tôi đâu? Mà cho dù chính tôi là một trong những thủ
phạm đó tôi biết mình sẽ không bỏ chạy. Từ xa đi đến
chắc chắn là thầy thấy rõ tôi chỉ là đứa có mặt đứng
xem, chớ không la hét. Tôi nhớ rõ phản ứng của tôi
ngay sau khi bị đánh: tôi đã quắc mắt lên nhìn thẳng
vào cái mặt giận dữ của thầy một cách sửng sốt lẫn
căm hờn. Thầy quay người bỏ đi.
Một lần khác, thầy TV vào lớp. Thầy dạy môn tiếng
Anh. Thầy là thi sĩ, ít năm sau sẽ là tác giả của
một thi phẩm đầu tay có tên “Người Yêu Tôi Khóc”.
Thầy luôn luôn “côm lê cà vạt” rất chững chạc dù
trời Phan Thiết khá nóng. Thầy nhìn lên bảng: có ai
đó bắt chước chữ ký của thầy đã ký lên bảng một chữ
TV thật to bằng phấn chiếm gần một nửa chiều dài tấm
bảng sơn màu xanh lá cây đậm. Thầy hỏi cả lớp không
ai nhận. Thầy phạt zero cả lớp và bắt cả lớp phải
đứng gần một tiếng đồng hồ nghe thầy mắng. Không
biết các bạn tôi ra sao, nhưng tôi rất tổn thương,
và hình ảnh ông Thầy vốn hết sức lớn lao và thiêng
liêng trong lòng đứa học trò nhà quê bỗng trở nên
nhỏ nhoi thảm hại, đến nỗi từ đó cho đến nay, tôi
chưa hề đọc một câu thơ nào của vị giáo sư thi sĩ ấy.
Một vị giáo sư khác cũng dạy môn Anh Văn nhưng vào
một năm khác, có một đứa em cùng học chung lớp với
chúng tôi. Thầy vô cùng nóng tính, thường bẻ đôi
viên phấn trong tay ném thẳng vào mặt học sinh nào
phạm lỗi khi đặt câu hay trả lời thầy không đúng.
Tôi không biết nếu nạn nhân không tránh đỡ kịp mà bị
viên phấn đánh trúng vào mắt mình thì hậu quả sẽ ra
sao. Thực ra, rất may, một tai nạn như thế đã không
xảy ra. Trong lúc đó mặt thầy thể hiện sự hằn học
như thể thù hằn. Đặc biệt thầy thường tát vào mặt
đứa em của thầy một cách giận dữ ghê gớm, khiến
chúng tôi sợ xanh mặt.
Mỗi tuần chúng tôi có một giờ học vẽ với một giáo sư
trẻ tuổi, ăn mặc rất “mốt” và rất chải chuốt. Cuối
năm học lớp Đệ Lục thầy đã phê trong học bạ của tôi
câu này: “Hay chuyện và làm ồn!” Thầy là người phê
đầu tiên cho nên các giáo sư khác sau đó thấy vậy
chỉ ghi vỏn vẹn hai chữ “Học được,” dù tôi học không
tồi và không hề làm một điều gì sai quấy trong lớp.
Đến giờ sau của thầy, tôi cầm cuốn học bạ lên bàn
thầy:
“Thưa thầy, thầy biết tên em là gì không ạ?”
Thầy nhướng mắt nhìn tôi: “Sao tôi phải biết tên anh?
Mỗi tuần tôi chỉ dạy các anh chị một giờ, làm sao
tôi có thể biết hết tên từng người được?”
Tôi hỏi tiếp: “Thưa thầy, thầy biết em ngồi chỗ nào
không?”
Đến đây thì thầy cảm thấy thằng học trò có điều gì
không ổn. Thầy quắc mắt: “Anh ngồi ở đâu mặc anh,
hỏi tôi làm gì? Về chỗ đi.”
Tuy học Đệ Lục, nhưng tôi lớn tuổi hơn học trò lớp
Bảy bây giờ. Và không may cho tôi, từ khi còn nhỏ
trước đó, tôi không sẵn sàng chấp nhận một sự bất
công nào cả. Mà tôi cũng không hề nghĩ rằng các vị
thầy lại có thể là người bất công. Do tính nông nỗi
trẻ con đòi hỏi sự công bằng nơi người lớn, tôi nói
ngay: “Suốt cả năm học thầy không biết tên em. Thầy
không biết em ngồi chỗ nào trong lớp. Thế mà thầy đã
phê trong học bạ của em “Hay chuyện và làm ồn.” Lời
phê của thầy vừa không đúng vừa sai văn phạm!”
Thầy đã mắng át tôi giữa lớp vì tội “hỗn láo”, và
mắng luôn cả lớp một trận. Thầy đã phê cho nhiều đứa
như thế chớ có riêng gì tôi đâu!
Một giáo sư dạy chúng tôi môn Việt văn. Hôm đó thầy
giảng Chinh Phụ Ngâm. Với câu “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa
hồng mao,” thầy giảng: “Một người đứng trên đầu núi
Thái Sơn gieo mình xuống, thân hình bay là là trông
nhẹ như một chiếc lông hồng!”
Tôi vụt giơ tay. Thầy gọi đứng dậy. Tôi nói: “Thưa
thầy, một người gieo mình trên núi Thái Sơn thì gọi
là gieo Thái Sơn. Nếu có người đứng trên cầu Mường
Mán[2]
gieo mình xuống thì gọi là gieo cầu phải không thầy?”
Vài tiếng cười bật lên. Thầy đỏ bừng mặt, vẫy tôi
ngồi xuống và cho tôi một cặp zero. Tôi không hiểu
tại sao. Cặp zero đó là của thầy mới phải chớ? Cũng
vị giáo sư này từng giảng câu thành ngữ “tam sao
thất bổn” là… ba lần sao được bảy bản! Đến nay, hơn
nửa thế kỷ đã trôi qua, có lẽ vị giáo sư đáng kính
này đã quên những chuyện vấp váp vụn vặt đó, nhưng
một số bạn cùng lớp của tôi mỗi lần họp mặt, ôn lại
những kỷ niệm xưa vẫn còn nhớ và nhắc lại với nhau
câu thành ngữ mới “ba lần sao bảy bản”.
Một chuyện cuối cùng: Năm Đệ Tam, một nữ giáo sư dạy
chúng tôi môn Công dân giáo dục. Tôi không nhớ cô
giảng thế nào, và tôi đã hỏi cô những câu gai góc
thế nào đến nỗi cô tức giận mắng tôi một trận tơi tả
tại lớp. Xong rồi, cô bỏ lên văn phòng. Và thầy Hiệu
trưởng Lê Tá đích thân xuống lớp gọi tôi ra. Tôi
theo thầy lên văn phòng. Thầy chỉ tôi ngồi xuống ghế
đối diện với thầy và buộc tội là học trò vô lễ với
giáo sư. Và tôi sẽ bị đưa ra hội đồng kỷ luật. Tuy
học Đệ Tam nhưng do học trò nhà quê học muộn vài
tuổi, tôi lớn tuổi hơn học trò lớp mười bây giờ. Tôi
đã nhìn thẳng vào mắt thầy hiệu trưởng, trình bày
lại với thầy chuyện đã xảy ra dưới lớp với cô giáo
Công Dân. Và tôi cả quyết cả lớp sẽ sẵn sàng xác
nhận điều tôi tường thuật với thầy. Nhân đó tôi nói
luôn tất cả những điều các thầy đã cư xử với cá nhân
tôi và với cả lớp tôi từ trước đến nay, kể cả chuyện
bản thân thầy hiệu trưởng đã đánh oan tôi từ năm Đệ
Thất.
Thầy hiệu trưởng sửng sốt. Thầy hỏi tôi vài câu, và
thầy ngồi nghe tôi nói hết. Cuối cùng thầy nói:
“Thôi được. Tôi sẽ nói chuyện với các giáo sư và sẽ
cho em biết biện pháp kỷ luật sau.”
Không có biện pháp kỷ luật nào cả. Hôm sau, vào giờ
chào cờ vào lớp, thầy Hiệu trưởng có đôi lời nói
chuyện với học sinh về tinh thần học tập vân vân.
Thầy tiếc đã xảy ra những chuyện này chuyện khác
giữa thầy và trò vân vân. Có lẽ không phải chỉ một
mình tôi ngầm hiểu thầy đang nói với tôi. Sau tất cả
những “cái dở của thánh nhân” nói trên, lần này thầy
Hiệu trưởng không dở.
Và đúng như tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần đã nói:
“Cái ngu của thánh nhân dạy ta nhiều hơn cái khôn
của họ.” Thầy cô là các thánh nhân trong con mắt học
trò chúng ta ngày đó. Nhưng có lẽ chúng ta học được
rất ít từ những cái khôn lớn lao của thánh nhân. Nó
cũng giống như mưa trên trời rơi xuống: chỉ một ít
nước thấm vào lòng đất, phần lớn “trôi sông trôi
biển”. Nhưng bù lại, nhờ học được từ những “cái dở
của thánh nhân” đó, tôi nghĩ mình cũng như nhiều
người khác, về sau có hạnh phúc được làm thầy, hiểu
phần nào tâm lý lũ học trò con nít nông nỗi vì vô tư
nhưng nhạy cảm, nên đã ít gây tổn thương cho những
tâm hồn non dại của đám học trò của mình. Có lẽ nhờ
những “bài học của thánh nhân” đó mà tôi hy vọng
mình đã không để lại trong lòng một đứa học trò nào
của mình một vết thương nào, dù rất nhỏ.
Nhớ về ngôi trường cũ Phan Bội Châu thân yêu của
mình thường thì chúng ta nhớ nhiều kỷ niệm vui.
Nhưng những kỷ niệm ít vui này không phải là không
có mặt tích cực đáng nhớ. Có lẽ chúng giúp điều
chỉnh một chút nào đó trong nhân cách của chúng ta
để từ đó chúng ta tránh được việc vô tình gây tổn
thương cho thế hệ học trò sau mình. Biết ơn thầy cô
có lẽ cũng cần phải biết ơn cả những điều mà thầy cô
không chủ ý dạy mình. Đó là những cái dở của họ. Vấn
đề là cách mình “tiếp thu”.
Nền giáo dục trong nước đang xuống cấp trầm trọng
gần như toàn diện. Có phần nào trong sự xuống cấp đó
là “phản ảnh” lại những điều tiêu cực mà một số các
vị thầy hôm nay “tiếp thu” được từ một số người
trong lớp các thầy của họ trước đó không?
Thiếu Khanh.
[1] Do ở trong nước, tôi
không đọc được trực tiếp bài viết của anh
Nguyễn Duy Sâm trên tập san (?)
[2] Cây cầu sắt duy nhất
lúc bấy giờ bắc qua con sông Mường Mán, cũng
gọi là sông Cà Ty chảy ngang qua và chia đôi
thị xã Phan Thiết; bên tả ngạn là khu trị sở
của các cơ quan hành chánh, bên hữu ngạn là
khu thương mại.
No comments:
Post a Comment