Được gặp nhà thơ Tô Thùy Yên một lần
tại Houston. (Hôm Nhà thơ Phan Xuân Sinh ra mắt sách “Sống Với Thời Quá Vãng”).
Buổi trò chuyện tại nhà anh Sinh đến nửa đêm, trong tiếng đàn thùng của anh Ngu
Yên, giọng ngâm không dứt của anh Trần Khánh Hoà, liên khúc Trần Thiện Thanh do
anh Đỗ Xuân Quang-Atlanta bắt nhịp. Anh Trần Hoài Thư, Trần Phù Thế, Lương Thư
Trung, Hoàng Định Nam, Trà Nguyễn… có cả, mỗi người mỗi vẻ ngây thơ trong đôi mắt
già nua bất luận. Một đêm thơ nhạc sẽ còn hoài trong ký ức những người dính líu
tới con chữ ở hải ngoại.
Ngoài hiên, Nhà thơ Tô Thùy Yên trò
chuyện cùng tôi và Đinh Yên Thảo như những người quen gặp lại. Dù chỉ gặp lần đầu,
trong chữ “Duyên” cửa Phật mà thành lấn cấn tới hôm nay. Ngồi đọc lại bài thơ
“Ta về” trong tiết tháng Tư, nơi sân sau nhà vắng. Chút gió xuân nồng nàn nhà
bên cắt cỏ… Giấc mơ chiều, người nông dân chỉ mong được về quê vỡ đất, tháng tư
đi tậu trâu bò/ để ta tiếp tục làm mùa tháng năm…
“Ta Về” là một bài thơ, bài hịch…
không quan trọng. Điểm cốt yếu của một giai đoạn lịch sử bi hùng gói gém trong
đó qua câu chữ chắt chiu từ chiến tranh và tù đày - không - chưa đủ. Còn có một
trái tim và tri thức làm chất liệu để hình thành nên tác phẩm để đời này. Giả sử,
không có cuộc chiến Việt Nam. Thơ ca miền Nam vẫn có Tô Thùy Yên nhưng không có
bài thơ “Ta về”. Aùng văn vần chiêu hồn bại sĩ, tổ quốc trong tâm thức một người
đi qua chiến tranh và hệ lụy. Cuộc chiến thắng súng đạn của kẻ ác nhưng không
thắng nổi những người bất bại, không thắng nổi tri thức và tâm thức miền Nam.
Không biết một người đời sau, thiếu hít thở không khí đạn mìn, mùi máu tươi
trên những xác người vô tội. Không được “khiêu vũ với bầy sói” trong những nhà
tù cải tạo… có làm lệch lạc, thô thiển, hiểu sai những lời bi thống về lịch sử
được vắt ra từ tâm thức người viết. Dù sao, thơ, không viết cho mình. Xin mạn
phép thăm tìm lịch sử qua thi phẩm ‘Ta về”.
Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt
áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm
phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm
ngùi thay
Ta Về, từ tuyệt vọng trong tâm cảnh
ngậm ngùi, khắp cùng đổ vỡ, tang thương. Nhưng không bi lụy, thề. Sự hào sảng của
kẻ sĩ “Thơ chẳng ai đề vạt áo phai” không còn ý nghĩa của thắng-bại, tiếng cười
sảng khoái cất lên ngay trên đầy đoạ, khổ đau của chính mình. Nỗi đau “mềm phế
phủ” không phải ai cũng chịu nổi, càng không phải là những tháng năm tù đày. “Bỗng
nghe/ đau/ mềm phế phủ” trước vật đổi sao dời sau mười năm xa vắng, mười năm
lao cải, mười năm đá cũng ngậm ngùi thay… Không tố cáo, không luận tội bằng bằng
trăm câu, ngàn chữ. Nhưng giá trị cáo trạng nằm trong chữ “thay”. Đá cũng ngậm
ngùi thay, huống chi lòng người. Ai làm ra nông nổi này? Triều đại có hưng
vong, chiến tranh có kết thúc. Lịch sử có sự công bằng cho con chữ thẳng ngay,
không tố giác nhưng không khuất phục, bỏ qua… Thái độ bình tâm nhả chữ khi viết
về lịch sử là khí độ của người cầm viết.
Vĩnh biệt ta mười
năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im
tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi
khe nước
Ta hoá thân thành
vượn cổ sơ
Mười năm sống như đã chết. Sự trả
thù có thể biến người ta thành “vượn cổ sơ”, có thể đầy đoạ hơn nữa, tới chết.
Nhưng người tù đã thắng cao ngạo sự trả thù đó. Lời thơ chỉ giản đơn “vĩnh biệt
ta mười năm chết dấp/ chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu.” Sao lại có người bị
người khác biến thành “vượn cổ sơ” suốt mười năm, mà không hề thù hận. Chỉ quên
đi thôi. Có lẽ làm gì được khi con người rơi vào hoàn cảnh phải sống chung với
loài vô trí vô tri, như vượn cổ sơ là những tên cai ngục, quản giáo. Cái buồn của
tâm thức tác giả nơi đây không phải là sự chịu đựng những đoạ đầy, mà khổ nhục
hoá thân. “Ta” hoá thân thành vượn cổ sơ để sống còn. Ta không bị người khác biến
ta thành vượn cổ sơ. Ta không đồng hoá với loài man rợ. “Chốn rừng thiêng im tiếng
nghìn thu”, rừng im tiếng từ khai thiên lập địa. Người tù cũng im lặng như rừng
để bảo tồn khí tiết. Quả là một người tử tế trong “những người tử tế” - “những
người tù cải tạo đều là những người tử tế…” Hà Thượng Nhân đã viết.
Có thể, ngay nhà thơ Tô Thùy Yên
cũng không đồng ý với cách hiểu bài thơ ‘Ta về” theo chiều hướng này. Nhưng một
tác phẩm đúng nghĩa về nghệ thuật và có giá trị về nội dung, sẽ không ngại góc
độ soi chiếu của lịch sử hay thời gian. Qua mỗi lăng kính khác nhau, tác phẩm đều
mở ra những giá trị mới hơn cho người đọc. Từng câu chữ trong “Ta về” là một thế
giới của sáng tạo thơ từ và tâm cảm trùng trùng trong hạn hẹp của ngôn ngữ…
Ta về qua những
truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa
ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông
trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi
tháng năm bay
Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng
váng xanh xao
Mười năm, thế giới
già trông thấy
Đất bạc mầu đi, đất
bạc mầu.
Ta về như bóng chim
qua trễ
Cho vội vàng thêm
gió cuối mùa
Ai đứng trông vời
mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc
phơ phơ
Một đời được mấy điều
mong ước
Núi lở sông bồi đã
mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều
tiếng động
Mười năm, cổ lục đã
ai ghi?
Ta về cúi mái đầu
sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta
nở
Thế giới vui từ mỗi
lẻ loi
Đọc đoạn thơ hoài cảm, như nâng tâm
hồn lên. Nhớ những “bước tới đèo ngang bóng xế tà/ cỏ cây chen đá lá chen hoa/
dừng chân đứng lại trời non nước/ một mảnh tình riêng ta với ta…” Hay cho tiền
nhân đạt tới sự cô tịch của hoài cảm với ba chữ “ta với ta”. Tấc lòng dị dã đến
kính phục bậc tiền nhân. Người đời sau, “nghe tàn cát bụi tháng năm bay” trước
quê nhà xiêu xẹo, sau mười năm, Ta về. Không luận ai hơn ai, một câu thơ hay
hơn có đổi được quê hương đã mất? Nỗi đau truyền kiếp của kẻ sĩ, không có hồi
âm. Lòng hoài cảm tịch liêu hiếm gặp trong thơ từ đạt tới cảnh giới vô ngã.
Hoàn toàn không phải là từ bi bất ngờ khi “cúi mái đầu sương điểm” mới “nghe nặng
từ tâm”. Tự tâm nghe được đất trời chia chung nhát cắt, nỗi đau mà bật thành lời
tri âm tri kỷ, “Cảm ơn hoa đã vì ta nở”. Câu thơ đẹp không có giai nhân/ là sự
cảm thụ khác biệt của thơ và văn vần, vè. Cảnh giới của ý và từ trong câu thơ
“ngộ” này đã thoát ra riêng một chỗ ngồi. Mở ra cánh cửa từ lâu khép chặt của
tâm thức con người u mê qua ngũ giác. Mắt thấy được không sắc, tai nghe được
không động, mũi ngửi được không mùi, lưỡi nếm được không vị, tay sờ được không
cùng. Tâm thức con người đạt tới vô ngã thì có thể cảm nhận được độ lượng của
vô vi, “thế giới vui từ mỗi lẻ loi”.
Cảm ơn nhà thơ Tô Thùy Yên đã tiên
phong bứt phá ra khỏi những lối mòn xưa cũ của thơ ca. Nhưng không thiếu những
làn điệu ca dao đã truyện miệng ngàn đời trên dải đất quê nhà. Hình ảnh trống
ngũ liên trong “Lính thú đời xưa” khiến người ta rơi lệ, “thùng thùng trống
đánh ngũ liên/ bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa…” Trống ngũ liên trong
“Ta về” đối lập, tiếng trống thúc người đi cứu nước, xây nhà… “Người đi như cá
theo con nước/ trống ngũ liên nôn nả gióng mừng”. Nhưng chỉ là mộng thôi, nỗi
khao khát trong tuyệt vọng, hoài bão lúc lâm chung. Thực cảnh sau cơn mơ giả tưởng
là, “ta về như lá rơi về cội/ bếp lửa nhân quần ấm tối nay/ chút rượu hồng đây
xin rưới xuống/ giải oan cho cuộc biển dâu này”.
Ngôn ngữ bi ai, hình ảnh ngậm ngùi,
bật lên nỗi đau không người chia sẻ. Một “bếp lửa nhân quần” chỉ đủ để rưới rượu
giải oan cho cuộc bể dâu. Rượu, oan khuất, cuộc bể dâu. Không làm vơi đi mà
tăng lên uất nghẹn thân cô thế độc. Đọc mà tội nghiệp cho ông khi hạ bút viết
những giòng này. “Mười năm chớp bể mưa nguồn đó, người thức mong buồn tận cõi
xa”. Đâu hết rồi, những người muôn năm cũ… sinh ly tử biệt là đây chăng? Thời
điểm ông viết bài thơ này (1986), có hàm ý nhắn gởi gì không - ra hải ngoại? Có
hay là không, - tùy cảm nhận người đọc trong tư thế nào, đang ở đâu?
Tưởng tượng nhà nhà
đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã
qua sông
Người đi như cá
theo con nước
Trống ngũ liên nôn
nả gióng mừng
Ta về như lá rơi về
cội
Bếp lửa nhân quần ấm
tối nay
Chút rượu hồng đây xin
rưới xuống
Giải oan cho cuộc
biển dâu này
Ta khóc tạ ơn đời
máu chảy
Ruột mềm như đá dưới
chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn
tận cõi xa
Ta về như hạt sương
trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế
chuyển đời
Bé bỏng cũng thì
sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa
người ơi
Quán dốc hơi thu
lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt
nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi
bát nước mời
Ta về như sợi tơ trời
trắng
Chấp chới trôi buồn
với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài
cõi vắng
Dừng chân nghe quặn
thắt tâm can
Lời thề buổi ấy còn
mang nặng
Nên mắc tình đời cởi
chẳng ra
Ta nhớ người xưa
ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là
ta
Dù sao cũng thấm thía với “Người thức
mong buồn tận cõi xa”. Mười năm đi qua địa ngục trần gian như sợi tơ trời trắng.
Khí tiết còn mang mang nặng lời thề nghiệp dĩ binh gia. Thì thôi, ta vẫn cứ là
ta… Cõi phù sinh, “bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt”. Một chút đảo ngữ đúng lúc,
đúng chỗ, để hỏi tội ai đây? “Tội tình chi lắm nữa người ơi”! “Quán dốc hơi thu
lùa nỗi nhớ” Quán nằm trên dốc - địa hình, thì tầm thường quá! Quán dốc bởi men
say, hơi thu bẻn lẻn về qua làn gió mỏng - làm tỉnh hồn teo mà thơ từ gọi là
“lùa nỗi nhớ” - những mặt người - mười năm người-người mới tỏ mặt nhau đây…
Thái độ phân rõ bạn-thù trong những nhà thơ thường lơ tơ mơ đã xưa rồi! Sau mười
năm nằm gai nếm mật, bạn-thù đã phân minh. Hãy đợi đấy!
Ta về, ta về như tứ thơ xiêu tán.
Còn gì để nói với một nhà thơ khi tứ thơ xiêu tán. Còn chứ, tàn chiêu quái đao ở
câu đắc địa: “Khách cũ không còn, khách mới thưa”. Ta về sau mười năm giã từ vũ
khí. Bạn lính, bạn thơ đà hoá thạch. Còn ai tri kỷ để tri âm. Khách mới không
“thưa” mới là lạ!
Ta về như tứ thơ
xiêu tán
Trong cõi hoang đường
trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn
nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối
xông nền
Mọi thứ không còn
ngăn nắp cũ
Nhà thương khó quá,
sống thờ ơ
Dậu nghiêng, cổng đổ,
thềm um cỏ
Khách cũ không còn,
khách mới thưa
Ta về, sau mười năm chết dấp để
“khai giải bùa thiêng yểm”, truyền hịch, đánh thức những linh hồn gỗ đá ngủ yên
sau mười năm tan hàng, buông súng… Nhưng sức người hữu hạn, lực bất tòng tâm,
tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên… lấy cỏ cây làm bạn đời thừa.
Ta về khai giải bùa
thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ
đá ơi
Hãy kể lại mười năm
truyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi.
Chiều nay ta sẽ đi
thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây,
những nỗi nhà
Hoa bưởi hoa tầm
xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ
người xa?
Ta về như đứa con
phung phá
Khánh kiệt đời
trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã
già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp
cạn dầu
Con gẫm lại đời con
thất bát
Hứa trăm điều, một
chẳng làm nên
Đời qua lớp lớp tàn
hư huyễn
Giọt lệ sương thầm
khóc biến thiên.
Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã
trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em
vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn
chờ sông
Đây là đoạn thơ thực nhất về tâm hồn
một nhà thơ chăng? Ngoài những tuyệt chiêu về ngôn ngữ, thơ từ; những đòn trí mạng
qua con chữ… là những xúc cảm đáy lòng một con người nhạy cảm hơn người thường.
Thơ từ diễm tuyệt, nhưng dùng cho một bài thơ tình chắc hay hơn đưa vào “Ta về”.
Nhưng dù sao, đó, đây, cũng là thực lòng một người đi qua địa ngục, trở về. Hay
cho “ta gọi thời gian sau cánh cửa”, điều không ai làm được vì thời gian không
trở lại. Nhưng thơ gọi được, mà phải Tô Thùy Yên gọi mới linh.
Ta gọi thời gian
sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa
mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân
tình chảy.
Tự kiếp xưa nào tưởng
lạc nhau.
Ta về dầu phải đi chân
đất
Khắp thế gian này để
gặp em
Đau khổ riêng gì
nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối
thức thâu đêm.
Cây bưởi xưa còn nhớ,
trắng hoa
Đêm chưa khuya quá,
hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi
già không ngủ
Thức trọn, khua từng
nỗi xót xa
Sự trở về gần như là điều không tưởng
của tác giả, không có gì lạ với hoài niệm, nhưng thái độ sống đương đầu với
lãng quên sau khổ nạn mới đáng bình. Khâm phục.
Ta về như giấc
mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một
tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ
sáng khôn nguôi
Bé ơi, này những
vui buồn cũ
Hãy sống đương đầu
với lãng quên
Con dế vẫn là con dế
ấy
Hát rong bờ cỏ giọng
thân quen
Ta về như nước Tào
Khê chảy
Tinh đẩu mười năm
luống nhạt mờ
Thân thích những ai
giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống
trải hơn xưa
Người chết đưa ta
cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng
bờ ao
Khóc người ta khóc
ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
Ta về như bóng ma hờn
tủi
Lục lại thời gian
kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng
phế liệu
Như từng hài cốt sắp
vô danh
Ngồi đây nền cũ nhà
hương hỏa
Đọc lại bài thơ thuở
thiếu thời
Ai đó trong hồn ta
thổn thức
Vầng trăng còn tiếc
cuộc rong chơi
Ta về như hạc vàng
thương nhớ
Một thuở trần gian
bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao
hữu hạn
Đành không trải hết
được lòng ta
Tô Thuỳ Yên
Không biết, cõi lòng một nhà thơ,
to, rộng, bự, hay trường giang đại hải tới đâu! Đọc mờ mắt mới thấy tên tác giả
mà nhà thơ còn tiếc đời hữu hạn/ đành không trải hết được lòng ta. Vậy lòng ta
mấy đỗi với khúc thương ca này? Miễn tội cho vãn bối một chiều lang thang với
mây trắng bay. Chút gió xuân nồng nàn nhà bên cắt cỏ… người nông dân chỉ mong
được về quê vỡ đất, tháng tư đi tậu trâu bò/ để ta tiếp tục làm mùa tháng năm…
PHAN
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật ngày 18.04.2010 theo
nguyên bản của tác giả gởi từ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment