Wednesday, June 27, 2018
Tuesday, June 19, 2018
Hồi ký của một người con gái đất Bắc tại Sài Gòn trước 75 - Hoàng Lan Chi
Tôi
còn nhớ ruộng miền Nam nhiều nơi không chia bờ rõ rệt. Tôi còn nhớ cây
trái Lái Thiêu không vạch lối ngăn rào. Tình hàng xóm là tất cả. Khi
chia rào, ngăn lối là xúc phạm. Tự người dân quê biết đâu là đất là vườn
của mình. Vào vườn Lái Thiêu cứ tha hồ ăn. Chỉ khi mua về mới phải trả
tiền. Ôi sao ngày ấy người ta hiếu khách và cuộc sống thanh bình đẹp đẽ
quá! Có phải là một phần nhỏ thiên đường nơi hạ giới chăng?…
Năm 1954 – 1960
Ngày
ấy tôi còn bé lắm. Lênh đênh trên chuyến tàu cuối vào Nam theo cha mẹ
chứ chẳng biết gì. Chuyến đi êm đềm không gì đáng nói. Tôi thấy người
Pháp cũng đàng hoàng. Thì đâu chả thế. Cũng có người này người kia.
Người hèn nhát, kẻ can đảm. Người quá khích, kẻ trung dung. Người Pháp
trên tàu tử tế. Họ cho ăn uống đầy đủ. Tôi không hiểu tại sao họ phải
tốn đủ thứ để đưa người di cư vào Nam. Nếu họ cứ mặc kệ thì không biết
số dân Bắc có đến được miền Nam dễ dàng không…
Đầu
tiên chúng tôi cặp bến Vũng Tàu. Rồi xe đưa vào Sài Gòn. Chúng tôi ở
tạm tại Nhà Hát sau này được sửa thành Tòa Quốc Hội, mấy hôm sau thì
phân tứ tán. Chính phủ trợ cấp cho mỗi đầu người là bao nhiêu đó, tôi
không nhớ vì quá bé.
Nơi tôi ở đầu
tiên là Cây Quéo, đường Ngô Tùng Châu. Gia đình tôi là người Bắc đầu
tiên đến đây. Sau này đọc truyện và biết con trai Bắc hay bị con trai
Nam uýnh và xỏ xiên: “Bắc kỳ ăn cá rô cây”… Không rõ có đúng không,
nhưng gia đình tôi hên. Nơi xóm nhỏ, người Nam thật thà đôn hậu. Họ cư
xử tử tế với chúng tôi. Đôi khi tôi lẩn thẩn nghĩ, hay vì gia đình tôi
là nhà giáo? Tinh thần tôn sư trọng đạo đã ăn sâu trong giòng máu dân
Việt? Họ rất tôn trọng và lễ phép đối với cha mẹ tôi. Một điều “thưa ông
giáo”, hai điều “thưa bà giáo”…
Con
đường đến trường tiểu học thật dễ thương. Ngày ấy chúng tôi đi bộ
nhiều, chẳng vù vù xe máy như bây giờ. Đi bộ đến trường thật vui. Cứ
tung tăng chân sáo, vừa đi vừa hái hoa bắt buớm. Ôi sao ngày đó Sài Gòn
nhiều hoa bướm thế! Hai bên đường những hàng rào hoa dâm bụt đo đỏ xinh
xinh. Nhìn vào trong, nhà nào cũng có vườn, cây cối xum xuê. Bướm bay la
đà. Những con bướm đủ màu sắc, nhưng bướm vàng nhiều nhất. Nếu nhìn
riêng thì bướm vàng không đẹp nhưng khi bay lượn giữa rừng lá xanh thì
đàn bướm vàng thật duyên dáng. Chúng như một nét điểm xuyết cho bức họa
hoa lá… Tôi thích nhìn bướm bay, tôi thích ngắm hoa nở. Trường học to
vừa phải, lớp học đủ ánh sáng. Mỗi sáng thứ hai chào cờ, đứng nghiêm và
hát quốc ca: Này công dân ơi, đứng lên đáp lời sông núi… Ừ thì thanh
niên luôn được dạy dỗ là “đáp lời sông núi”.
Chúng
tôi được học những bài công dân giáo dục đầu tiên và chúng đã ăn sâu
mãi vào tiềm thức. Đủ biết các cụ nói uốn cây khi chúng còn non là đúng.
Tuổi ngây thơ coi những lời thầy cô là khuôn vàng thước ngọc:
- Không phá của công
- Không xả rác ngoài đường
- Phải nhường ghế cho người lớn tuổi, phụ nữ có thai trên xe buýt
- Phải dắt em bé hay cụ già qua đường
- Phải ngả nón chào khi xe tang đi qua
- Không gian lận. Nói dối là xấu xa…
Chúng
tôi đã được dậy như thế đó và chúng tôi đã làm theo như thế đó. Ôi Sài
Gòn của tôi ơi, bây giờ tôi đi giữa phố phường mà lạc lõng vô cùng khi
chỉ mình tôi ngả nón chào người chết hay chạy nép vào lề nhường cho xe
cấp cứu đi qua!
Rồi những bài học thuộc lòng rất giản dị dễ nhớ:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Hay:
Những buổi sáng vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông làng mạc ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi im lặng lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng khắp trong giờ quốc sử…
Sung sướng quá, giờ cuối cùng đã điểm
Đàn chim non hớn hở dắt tay về
Chín mươi ngày vui sướng ở đồng quê…
Trên non sông làng mạc ruộng đồng quê
Chúng tôi ngồi im lặng lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng khắp trong giờ quốc sử…
Sung sướng quá, giờ cuối cùng đã điểm
Đàn chim non hớn hở dắt tay về
Chín mươi ngày vui sướng ở đồng quê…
Cuộc
sống sao êm đềm và thanh bình quá! Không có những cướp bóc lớn lao. Ăn
cắp vặt cũng không ghê gớm. Tôi còn nhớ phơi quần áo trước nhà rất an
toàn chẳng phải trông chừng…
Tôi còn
nhớ ruộng miền Nam nhiều nơi không chia bờ rõ rệt. Tôi còn nhớ cây trái
Lái Thiêu không vạch lối ngăn rào. Tình hàng xóm là tất cả. Khi chia
rào, ngăn lối là xúc phạm. Tự người dân quê biết đâu là đất là vườn của
mình. Vào vườn Lái Thiêu cứ tha hồ ăn. Chỉ khi mua về mới phải trả tiền.
Ôi sao ngày ấy người ta hiếu khách và cuộc sống thanh bình đẹp đẽ quá!
Có phải là một phần nhỏ thiên đường nơi hạ giới chăng? Tôi nhớ nhiều về
Lễ Quốc Khánh đầu tiên năm 1956 thì phải, đúng là lễ hội. Pháo hoa tưng
bừng và người người ra đường trong hớn hở reo vui. Không chửi bới, không
chà đạp, không giành đường xem lễ… Sài Gòn bấy giờ còn thênh thang lắm.
Sài Gòn bấy giờ chưa đông đúc bon chen…
Ngày
ấy các bà Bắc hay Trung đi chợ còn mặc áo dài. Lề thói xưa còn ăn trong
nếp ấy. Ra đường là phải lịch sự. Khi lễ lạc thì phải mặc quần đen với
áo dài chứ không được quần trắng vì như thế là thiếu lễ… Tôi còn nhớ một
gia đình trung lưu là đã có thể thuê người làm. Đa phần người làm là
các cô gái miền Trung. Đúng là quê hương em nghèo lắm ai ơi! Đất khô cằn
sỏi đá đã khiến bao cô gái quê vào miền Nam giúp việc. Thuở ấy người
miền Nam hay dùng từ “ở đợ”, còn người Bắc gọi là “người làm”. Các chị
giúp việc thường rất trung thành và lễ phép với chủ nhà, các cô cậu con
chủ nhà cũng được tôn trọng. Bà chủ thường ở nhà vì nhà nào cũng khá
đông con. Ban đầu thì ba, bốn và sau thành sáu. Tôi còn nhớ lương giáo
sư đệ nhị cấp tức dạy từ lớp đệ Thất đến đệ Nhất của cha tôi là 5.200
đồng, vợ được 1.200 đồng và mỗi con là 800 đồng (không hạn chế số con).
Tô phở khá ngon là năm đồng. Coi như lương giáo sư là 1.040 tô phở.
Lương người giúp việc là 300 đồng. Lương Bộ trưởng gấp 5 lần lương giáo
sư, vào khoảng 25.000 đồng. Còn lương Đại úy thì bằng lương giáo sư. Nếu
bây giờ 7.000 đồng tô phở bình dân thì lương của giáo viên cấp ba phải
là 7.000.000 đ.
Hồi đó chúng tôi thi
một năm hai kỳ gọi là đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt. Đề thi hoàn toàn
do giáo viên (cấp tiểu học) hay giáo sư phụ trách ra đề. Hồi đó không có
nạn các giáo sư hay giáo viên kéo trò về nhà dậy kèm hay bán đề thi.
Đơn giản có lẽ vì đồng lương đã đủ sống nên họ không phải bán rẻ lương
tâm. Cuối năm lớp Nhất thì chúng tôi phải thi bằng Tiểu Học. Sau đó thi
vào đệ Thất các lớp trường công. Ai rớt thì học trường tư. Tất nhiên
phải học giỏi mới thi vào được những trường công danh tiếng như Gia
Long, Trưng Vương, Petrus Ký, Chu Văn An. Những tháng ngày tiểu học với
tôi là tung tăng chân sáo, là chơi nhiều hơn học, là hái hoa bắt bướm,
là nhảy lò cò, là chơi giải ranh, chơi ô quan. Đúng ba tháng hè là chơi
thoả thích… Ôi chơi chơi… sao mà thú vị thế! Nhớ đến tiểu học của con
gái mình, tôi lại xót xa. Học quá nhiều để có thành tích cho thầy cô,
cho trường lớp… và con gái tôi không bao giờ biết đến “chín mươi ngày
vui sướng ở đồng quê”.
Năm 1960 – 1967
Đậu
tiểu học xong tôi thi hai trường Marie Curie và Gia Long. Lẽ ra phải
thi Trưng Vương mới đúng nhưng không biết sao cha tôi quyết định vậy.
Những ngày đầu đi học Gia Long xúng xính đầm. Cha định cho tôi học Marie
Curie nhưng phút chót lại chuyển sang Gia Long. Số tôi hên. Cô gái Bắc
kỳ lạc lõng giữa rừng nữ sinh Nam kỳ mà không hề bị chia rẽ hay kỳ thị,
hệt như ngày xưa, người dân Sài Gòn đã cưu mang gia đình tôi ở Cây Quéo.
Từ thầy cô đến bạn bè, chẳng ai thắc mắc vì sao tôi mặc đầm.
Tôi
học sinh ngữ Pháp văn. Trường có bảy lớp Anh và bảy lớp Pháp. Tôi học
đệ Thất 14, lớp chót. Những năm đầu trung học tôi đi xe đưa rước của
trường. Thế là hết những ngày chân sáo, hết những ngày đuổi bướm bắt
hoa. Chỉ còn ngồi trong xe hiệu đoàn ngắm phố phường qua khung cửa sổ.
Xe trường đưa các nữ sinh lớp sáng về nhà và trên đường đi rước các nữ
sinh lớp chiều. Trong khi chờ đợi xe đến đón, tôi thường cột áo dài và
trèo lên cây trứng cá trước nhà để hái trái nhâm nhi ăn chơi hay đem vào
lớp cho bạn. Nghe tiếng còi xe ngoài đường thì tụt xuống xách cặp chạy
ào ra. Nhà xa nên tôi bị đón sớm và về muộn. Bây giờ nhớ lại thuở cột áo
leo cây thấy vui vui… khi vào trường cũng cột tà áo để nhảy lò cò.
Trường Gia Long rất đẹp! Trường thật đồ sộ, bốn phía là bốn con đường.
Ngày ấy chính phủ đặt tên đường có chủ đích rõ ràng. Đặt theo từng vùng
các danh nhân văn võ, không đặt lộn xộn lung tung. Gia Long của tôi đã
được bao quanh bởi các danh nhân văn chương như Bà Huyện Thanh Quan,
Phan Thanh Giản, Đoàn Thị Điểm và Ngô Thời Nhiệm. Chính giữa trường là
con đường tráng nhựa thật đẹp và chúng tôi hay gọi đùa là đường Bonard.
Giờ ra chơi các nữ sinh dắt tay nhau thơ thẩn trên con đường ấy trông
thật dễ thương. Rồi gia đình tôi chuyển sang Vạn Kiếp. Trước nhà có một
bụi tre và đối diện là khoảng vườn mênh mông của chủ đất với những cây
cau thẳng tắp .

Năm
1960 có nghe tin về “Mặt Trận Giải Phóng”… gì đó nhưng tôi chẳng quan
tâm. Thứ nhất còn bé phải lo học, thứ hai mọi cái lúc bấy giờ đã được
chính phủ đưa dần vào nền nếp và chiến tranh còn xa lắm. Đó là thời điểm
cực thịnh của nền Đệ Nhất Cộng Hoà. Ngày đó chưa có truyền hình, mới
chỉ có truyền thanh. Chương trình khá phong phú. Tôi thích vừa làm toán
vừa nghe nhạc. Cũng có chương trình “tuyển lựa ca sỹ” hàng tuần, nhưng
phải nói đa số hát dở chứ không như các cuộc thi bây giờ, thí sinh hát
khá vững.
Báo chí nở rộ, ai có tiền
thì ra báo. Không cần phải là người của cơ quan chính quyền như bây giờ.
Tôi mê xem báo. Tôi đói tin tức. Ngày đó có vụ thuê báo. Các em bán báo
lẻ hay quầy bán báo nếu bán không hết thì cuối ngày trả lại toà soạn.
Vì thế một số quầy báo có sáng kiến cho thuê báo. Người đọc thuê và trả
tiền chỉ chừng phân nửa. Tất nhiên tiền đó chui vô túi chủ quầy báo và
người bị thiệt hại là chủ nhân tờ báo. Gia đình tôi chỉ mua một tờ và
trao đổi với nhà cậu tôi chứ không thuê. Coi như tốn tiền một mà được
xem hai báo.
Báo thiếu nhi hơi ít. Báo
chí đối lập được tự do hoạt động. Do đó có gì xấu xa của chế độ hay
chính quyền thì những tờ báo đó vạch ra ngay. Còn những tờ thân chính
phủ thì bị báo chí đối lập gọi là nâng bi. Sách thì rất nhiều, đủ các
loại. Mỗi nhà xuất bản có nét đặc thù riêng. Như nói đến Lá Bối là biết
ngay các loại sách về Thiền, Phật.
Văn
thi sỹ nở rộ, tất nhiên cũng chia làm nhiều loại. Có những văn sỹ
chuyên viết tiểu thuyết tâm lý xã hội và được các bà nội trợ bình dân
hay các tiểu thương ái mộ như bà Tùng Long. Có những văn sỹ miền Bắc
viết chuyện trong thời gian họ đi kháng chiến chống Pháp rất hay như
Doãn Quốc Sỹ. Thời ấy thi sỹ cũng nhiều. Nào Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương,
Du Tử Lê, Nguyên Sa, Hà Huyền Chi, Hoàng Anh Tuấn, Mường Mán…
Thơ
văn Sài Gòn hồi ấy như trăm hoa đua nở. Đủ loại và tự do sáng tác theo
cảm hứng, không phải viết theo một khuôn mẫu nào, do đó rất phong phú.
Nhưng tôi lại thích đọc sách phóng tác hay dịch! (vì chưa đủ trình độ
đọc nguyên tác) Mỗi lần hè về là tôi mê mẩn ngốn hàng tá truyện. Vật giá
có lên nhưng chỉ chút đỉnh. Cũng chỉ mình cha đi làm còn mẹ ở nhà chăm
lo con cái. Thuở tiểu học thì mẹ tôi kèm tất cả các môn. Lên Trung học
thì bà không dạy được các môn khoa học nhưng Pháp văn thì vẫn tiếp tục
cho đến tú tài vì ngày xưa mẹ tôi có bằng Certificat gì đó.
Cuộc
sống vẫn êm đềm và khá thanh bình. Nhưng từ năm 61 thì không còn nữa.
Đường đi thuờng xuyên bị đắp mô. Quốc lộ thì ít và tỉnh lộ thì nhiều
hơn. Địa phương quân mỗi sáng sớm phải đi phá mô. Xong xuôi thì dân
chúng mới dám đi lại. Đã có những mô nổ tung và cả chuyến xe đò tan tác.
Rồi những năm sau là những lần nổ ở vũ truờng nơi quân Mỹ thường lui
tới. Tất nhiên dân thường cũng vạ lây.
Tôi
vẫn ngoan ngoãn với sách đèn. Chẳng hề giao du bạn trai vì cha mẹ cấm.
Ngày ấy Gia Long và Trưng Vương là hai trường nữ nổi tiếng nhất. Hàng
năm chỉ có một kỳ thi chọn học sinh giỏi là Trung Học Toàn Quốc. Lẽ dĩ
nhiên số đậu rơi vào bốn trường lớn. Còn Lễ Hai Bà Trưng hàng năm được
tổ chức khá lớn và hai nguời đẹp của Gia Long, Trưng Vương được đóng vai
Hai Bà ngồi voi diễn hành.
Đề thi của
mỗi môn cũng vẫn do Giáo sư môn đó phụ trách. Tôi thấy như vậy mà hay.
Chẳng có gì lộn xộn xảy ra vì thời ấy không có nạn cha mẹ hối lộ Thầy
cô. Mãi năm tôi học đệ nhất thì thi chung toàn khối và đã có rắc rối.
Chẳng hạn đề thi triết đệ nhất lục cá nguyệt là của cô Lan dạy chúng tôi
thì lớp chúng tôi làm được còn các lớp khác thì không. Hồi đó bậc Trung
Học chúng tôi phải thi tổng cộng: Trung Học (hết lớp đệ tứ) Tú tài 1
(hết lớp đệ nhị) và Tú tài 2 (hết lớp đệ nhất). Nhiều bạn sau khi có
bằng Trung Học thì đi làm. Có thể chọn nghề thư ký. Sau Tú tài một, rụng
bớt một số bạn. Sau Tú hai rụng một số. Số học giỏi và có điều kiện thì
tiếp tục con đường đại học.
Đề thi
đại học do các trường tự phụ trách. Ngày thi lệch nhau. Trường nào cũng
công bố danh sách thi đậu chính thức và dự bị. Do đó tôi cảm thấy rất
trật tự nề nếp chứ không lộn xộn như bây giờ. Nếu gọi danh sách chính
thức mà thiếu thì truờng gọi đến dự bị. Đơn giản vậy thôi. Nhưng có lẽ
hồi đó vấn đề hối lộ, bán đề thi không kinh khủng để đến nỗi Bộ Giáo Dục
phải xen vào ra đề chung như bây giờ. Lại cũng do vấn đề tiền lương.
Khi đồng lương không đủ sống thì tư cách con người suy giảm.
Đường
phố Sài Gòn của những năm 63 vẫn còn xe Mobylette và dễ thương ngộ
nghĩnh là Velo solex. Chiếc xe xinh xắn nhưng có cái bầu to phía trước.
Nữ sinh thường đi xe này. Khi chạy xe, tà áo dài phía sau phồng lên
trông rất vui. Nhưng đa số học sinh vẫn đi xe đạp. Số xe máy rất ít. Và
vì thế đường phố Sài Gòn vẫn khá thênh thang. Năm đệ tam thì tôi không
đi xe đưa rước nữa mà chuyển qua xe đạp. Cũng khá xa mà sao hồi đó chúng
tôi không thấy gì. Chả như bây giờ sân trường cứ tràn ngập xe máy mà
lại còn xe phân khối lớn.

Năm
tôi học đệ tứ thì xảy ra vụ Phật Giáo. Sau đó nền Đệ nhất Cộng Hoà sụp
đổ. Tôi không ghét ông Diệm nhưng tôi ghét bà Nhu. Vì tính tình xấc xược
của bà. Nhưng phải nói hồi đó với tôi, xã hội tương đối ổn định, trật
tự nề nếp. Dù ông Nhu có lập Đảng Cần Lao nhưng không ép buộc lộ liễu.
Họ cũng gợi ý nhưng không vào thì thôi. Cũng chẳng vì thế mà bị “đì” sói
trán. Hay trong ngành giáo dục của cha tôi, người ta không trắng trợn?
Tôi chỉ biết nếu học giỏi là được học bổng, không bị phân chia lý lịch
gì cả.
Sau 63, các trường có Ban Đại
diện. Ngày đó tôi không chú ý lắm các thành phần ứng cử. Nhưng sau này,
các anh chị lớn nói rằng, học sinh sinh viên giỏi thường bù đầu với việc
học, ít tham gia các hoạt động trên. Do đó phe miền Bắc cài người vào
nằm vùng ở hầu hết Ban đại diện các trường. Họ được huấn luyện kỹ nên ăn
nói hoạt bát. Còn học sinh giỏi thì không có thời gian luyện khoa ăn
nói. Sài Gòn của tôi sau những ngày đấu tranh sôi nổi, sau những biểu
tình, sau vụ tự thiêu của Hoà Thượng Thích Quảng Đức… lại êm ả trở lại.
Nhưng không như xưa vì liên tiếp các đột biến về chính trị. Cuộc chỉnh
lý của Tuớng Nguyễn Khánh rồi chẳng bao lâu đến phiên của Tướng Thiệu và
Tướng Kỳ.
Tôi chỉ biết học và không
chú ý đến những việc khác. Liên tiếp hai năm thi tú tài một và hai đã
ngốn tất cả quỹ thời gian. Nhưng tôi chỉ nhớ Tú tài một, chuơng trình đã
bị cắt giảm vì chiến tranh. Cũng từ năm 1965, quân Mỹ đổ vào đông và đã
gây xáo trộn. Lính Mỹ lấy vợ Việt. Đa số là các cô gái nhảy, thời đó
gọi là cave hay cả các cô xuất thân là người giúp việc. Me Mỹ là tên dân
chúng gọi cho những cô này. Nội cái tên gọi đã nói lên sự khinh rẻ của
dân chúng dành cho những cô gái ấy. Nghĩ cũng đáng thương. Nhưng cũng
chính những đồng đô la mà các cô me Mỹ tiêu vô tội vạ đã làm vật giá Sài
Gòn tăng cao. Người làm của chúng tôi lấy Mỹ và đổi đời.
Cuộc
sống của giới trung lưu như giáo sư bắt đầu lao đao. Giáo sư nào dạy tư
thêm thì còn đỡ. Gia đình tôi hạn chế mọi chi tiêu vì cha không dạy tư
và yêu cầu mẹ phải ở nhà chăm sóc việc học của các con. Ai có thời gian
để gửi thư tình tự, ai có lúc lang thang quán ăn hàng, còn tôi thì
không, cắm đầu cắm cổ học, đi học xong là về nhà ngay. Ngày đó chúng
tôi, gồm chị tôi và tôi đều học Gia Long nên không có vụ bạn trai nào
dám đến nhà. Chúng tôi cũng chẳng học tư nhiều. Mà học tư vào những năm
thi thì cũng né con trai tối đa. Lệnh cha mẹ phải chấp hành nghiêm
chỉnh. Thậm chí sau này chị tôi học dược cũng vẫn không hề có một tên
“masculin” nào dám đến nhà!
Tôi thích
con gái đi học bằng xe đạp và nón lá nghiêng nghiêng. Từng vòng xe quay
chầm chậm nhỏ bé. Áo dài ngày đó mặc rất kín đáo. Chúng tôi bắt buộc
phải có áo lá bên trong. Và các bà giám thị luôn coi chừng nhắc nhở
những nàng mặc áo quá chít eo, những nàng khua giày cao lộp cộp. Chúng
tôi đi sandalh, rất dễ thương. Tôi không thích học trò quá điệu, áo thật
eo hay guốc cao. Mà thật kỳ, đa số mấy cô điệu thường học kém và có bồ
sớm. Các cô giỏi thì ngược lại. Nhưng cũng có cá biệt. Tôi còn nhớ ngày
đó cô bạn ban B, Kim Dung rất xinh học giỏi được chọn làm Tây Thi trong
vở kịch cuối năm chẳng điệu gì cả. Riêng lớp tôi thì chỉ có vài chị điệu
và tất nhiên học dở, có bồ sớm.
Năm
tôi thi tú tài, chỉ còn viết và bỏ vấn đáp. Chứ trước kia, một số môn
phải thi viết và vấn đáp (còn gọi là oral).Tôi đậu tú tài cao và được
trường thưởng hai chữ Gia Long quyện vào nhau bằng vàng 18. Những năm
sau, trường đổi lại là hoa mai vàng. Đó cũng là phù hiệu của Gia Long.
Tôi mê Y khoa và ghét duợc! Tôi thích là bác sỹ để chữa bịnh cho trẻ em
và tự nhủ sẽ chữa miễn phí cho em nào mắc bệnh sài uốn ván. Tất cả chỉ
vì tôi mất một đứa em trai vì bệnh này. Còn Dược khoa, chẳng hiểu sao
tôi ghét nữa. Tôi nói rằng học dược, ra bán thuốc ngồi đếm từng đồng xu
leng keng! Chính vì thế sau này có một dược sỹ đại uý theo, tôi đặt tên
anh ta là “đại uý leng keng”! Nhưng nghề chọn người chứ người không chọn
được nghề. Tôi thi rớt dù học giỏi. Năm đó đề thi y khoa bắt đầu có câu
hỏi tổng quát, hỏi về những kiến thức xã hội chung quanh. Tôi học chăm
quá nên vào phòng thi bị đuối sức, quỵ ngã .
Năm 1967 – 1971
Tôi
ghi danh Khoa Học, Chứng chỉ Lý Hoá Vạn Vật tức SPCN
(Science-Physic-Chimie-Naturel). Nơi đây quy tụ nhiều người đẹp nhất
Khoa học vì sinh viên xuất thân ban A. Còn chứng chỉ MGB hay MGP thì ít
con gái hơn…
Chương trình học khá
nặng. Buổi sáng thực tập đủ năm môn và chiều học lý thuyết. Tôi thích
thực tập thực vật hơn các môn kia. Cắt ngang hoa dâm bụt hay lá gì đó
xem được cấu trúc của nó duới kinh hiển vi rất đẹp. Tôi không thích thực
tập địa chất. Toàn những mẩu đá vô tri giác. Tôi cũng không thích lý
với những bài dây điện loằng ngoằng.Thực tập động vật tuy sợ nhưng cũng
thích. Mổ con vật ra và xem cơ thể bên trong rất thú vị. Chính ở đây là
những mảnh tình trong sân trường đại học, vì có cơ hội tiếp xúc bạn
trai. Chứ những ngày Gia Long hết đi xe hiệu đoàn đến xe đạp và mê học
quá chừng đâu chú ý ai.
Năm đầu tiên
đại học tôi chứng kiến vụ tết Mậu Thân. Sáng sớm nghe nổ mà ngỡ tiếng
pháo. Khi nghe tin Sài Gòn bị tấn công, tôi bàng hoàng. Trời, thủ đô?
Mấy ngày sau từ nhà nhìn về phía Gò Vấp thấy trực thăng thả rocket từng
chùm. Lần đầu tiên cô bé nữ sinh chứng kiến tận mắt chiến tranh dù chỉ
là một phần nhỏ. Thực ra trước đó có những lần các quán bar bị đặt mìn
nổ, xác người tung toé. Sau những ngày kinh hoàng, Sài Gòn của tôi lại
như cũ.
Ngày đó chúng tôi đi học mặc
áo dài. Thỉnh thoảng có cô mặc đầm và không ai mặc Tây cả… Nên sân
truờng đại học tung bay bao tà áo muôn màu sắc. Cha mẹ khó nên tôi vẫn
đơn giản áo trắng và ôm cặp như thuở Gia Long. Thỉnh thoảng mới áo màu.
Vì vậy khi tôi mặc áo dài màu, các bạn thấy lạ. Chiều thứ bảy, tôi
thường cùng cô bạn lang thang Sài Gòn để ăn hàng và ngắm phố phường. Hồi
đó có lẽ không khí chưa ô nhiễm nên con gái Sài Gòn tuổi mười bốn, hai
mươi trông rất đẹp. Đẹp tự nhiên ở đôi mắt đen láy, nước da đỏ hồng. Có
cô má đỏ au như con gái Đà Lạt .Tôi thích người đẹp nên hay ngắm con gái
Sài Gòn trên hè phố. Tuổi học trò thích nhất là lang thang phố phường
và ăn hàng. Đi học cũng thích thầy bịnh để được nghỉ rồi rủ nhau ra quán
tán dóc. Thật ra bọn con gái chúng tôi siêng năng đi học nên thích vậy
chứ một số ông con trai rất ít đến giảng đường. Mấy ông đó chỉ đi thực
tập vì có điểm danh. Vả lại không đi thì sẽ không biết làm. Còn lý
thuyết thì lâu lâu đáo vô một chút. Cuối năm bắt đầu ngồi tụng. Tất
nhiên cour đâu bằng bài giảng của Thầy. Thế là các ông tướng này đi theo
năn nỉ mấy cô như tôi cho mượn tập!

Đời
sống đắt đỏ, vật giá leo thang hoài. Chiến tranh cũng vậy. Quay trái,
quay phải, sau lưng, trước mặt, đâu cũng có người đi lính và chết. Có
năm sinh viên phản đối chính quyền, đã vô xé bài không cho chúng tôi
thi. Sau này, điểm danh lại thì trời ơi… mấy tay kích động, phá hoại đó
toàn là dân nằm vùng. Tôi bắt đầu gửi bài đăng báo năm đệ tứ. Đăng và
dấu nhẹm, không dám cho gia đình biết. Hai năm sau thì bận hai kỳ thi tú
tài nên ngưng. Khi lên năm thứ hai đại học thì tôi lai rai viết lại.
Thuở đó báo có số phát hành nhiều nhất là tờ Chính Luận. Thiên hạ đổ xô
đăng quảng cáo ở đây rất nhiều. Báo có mục Chuyện Phiếm. Nội dung là
viết linh tinh đủ vấn đề nhưng khuynh huớng là chỉ trích những việc…
đáng bị chỉ trích. Tôi lấy bút hiệu Quỳnh Couteau. Tôi còn nhớ có mấy
cây bút sinh viên của mục này: Quỳnh Couteau của Khoa học, Thảo gàn của
Nha khoa, Thu hippy dường như văn khoa.
Tôi
viết truyện tình cho báo Tiếng Vang . Tôi có thói quen mua từng ram
giấy pelure đủ mầu và viết bài trên đó. Tương đối tôi viết khá dễ dàng,
đặt bút là viết, hiếm khi sửa lại hay bôi xoá. Để bài mình được đăng
nhiều và liên tiếp, tôi lấy khá nhiều bút hiệu. Nhưng tôi biết nhà văn
Thanh Nam, người phụ trách trang đó biết là cùng một người .Vì cùng một
nét chữ, cùng cách sử dụng giấy pelure hồng, vàng. Tiếng Vang gửi nhuận
bút 500/bài, Chính Luận thì cao hơn 800/bài . Sau này tôi lai rai nhảy
qua Sóng Thần của Chu Tử…
Tôi nhớ
dường như sau một năm tôi có bật mí trong một truyện, các bút hiệu 1, 2,
3, 4… đều chỉ là một người! Có điều vui là các độc giả cũng ái mộ, gửi
thư đến toà soạn xin làm quen. Vui hơn nữa là khi tôi đến toà soạn lãnh
nhuận bút gặp Hồng Vân, cô con gái chủ nhiệm Quốc Phong. Cô này lúc đó
thay thế nhà văn Thanh Nam phụ trách trang Truyện tình của bạn. Không
biết sao chỉ gặp lần đầu, nhìn xa xa mà cô rất thích tôi. Hôm sau xuất
hiện trên báo dòng nhắn tin của cô: “ PQ, hôm qua PQ đến mà chị không
dám ra nói chuyện vì đang đau mắt. Nhưng thấy PQ xinh quá, giọng Bắc
thật dễ thưong.” Giời ạ, sau dòng nhắn của cô thì thơ của độc giả ái mộ
gửi đến quá xá luôn. Tất nhiên tôi vẫn dấu nhẹm mọi người trong gia
đình. Nếu không, bố tôi cho ăn chổi chà về tội không học, lo viết chuyện
đăng báo! Thực ra tôi vẫn chăm học. Viết truyện tình ngắn với tôi dễ
ẹt! Chỉ mất chừng một giờ mà lại có 500 hay 800 để đãi bạn bè ăn hàng
thì cũng thú vị. Tiếc là sau này Tiếng Vang tự đình bản và tôi quay qua
viết cho Sóng Thần hay Dân Luận.
Hồi
đó sinh viên chúng tôi hay ra thư viện để học. Thư viện khoa học thì
nhỏ, muốn có chỗ phải đi sớm. Chỉ có môt điều tiện là ngay trong truờng
thì sau đó vô giảng đường, không mất thời gian di chuyển. Còn thư viện
đẹp là của ĐH Vạn Hạnh nhưng tôi ít đến vì xa nhà. Hai thư viện gần là
thư viện Văn hoá Đức và Hội Việt Mỹ. Thư viện Văn hoá Đức nằm trên đường
Phan Đình Phùng, nhỏ thôi, có máy lạnh, nhưng tệ hại là không có người
giữ xe, xe cứ khoá để trong sân, thư viện lại ở trên lầu. Và tại đây,
tôi có những kỷ niệm vừa vui vừa buồn. Những kỷ niệm nho nhỏ.
Thư
viện bé nên chỉ một thời gian, những sinh viên hay lui tới đều biết mặt
nhau. Tôi còn nhớ có một sinh viên già nhất, rất lập dị. Anh để hàm râu
dài và xồm xoàm. Nghe nói anh đang học Luật. Gặp tôi vài lần ở cầu
thang, mỉm cười với nhau và thế là quen. Có lần tôi ngồi học và có cảm
tưởng. Tôi nhìn sang thấy anh ở bên kia và đang vẽ ký hoạ tôi. Khi ra
về, anh đưa và hỏi: “Hôm nay anh thấy em dễ thương lắm. Em đã lấy mất
một buổi học của anh. Vì… vẽ em…”. Có khi anh bảo tôi: “Khi nào em lấy
chồng, nhớ báo anh nhé ” – “Anh sẽ mừng gì?” – “ Một tạ muối” – “Kỳ vậy”
– “Cho tình nghĩa vợ chồng của em đậm đà như muối.”
T,
bạn cùng Khoa học cũng hay đến đây. T đến vì tôi chứ không vì thư viện
vì nhà T xa. Lắm lúc cũng chẳng học, vẽ lăng quăng hay viết lăng quăng
mấy câu nho nhỏ gì đó cho tôi. Rồi tôi bị mất xe ở đây. Hôm đó tự nhiên
thấy người rất khoẻ và sáng suốt, tôi say mê học. Thư viện về hết, chỉ
còn mình tôi. Khi xuống thì chẳng thấy Honda, chiếc Honda mới toanh do
gia đinh mới mua, giá 72.000 đ (lương giáo sư lúc đó 23.000). Tôi hoảng
hốt xuống phòng dưới của bảo vệ, hỏi rất ngây thơ:
– Bác thấy xe cháu đâu không?
Bác cười:
– Không, chắc lại bị ăn cắp rồi!
Tôi
tái mặt. Bác nói tôi đi khai báo. Tôi đi bộ đến bót cảnh sát trên đường
Mạc Đĩnh Chi gần đó. Lão cảnh sát thấy ghét. Lão ghi chép xong lời khai
rồi cười cười:
– Thế cô có biết ai lấy xe cô không?!
Tôi
đi bộ từ đó về nhà ở Gia Định. Thấy con đi về, không có xe, cha mẹ hỏi.
Mếu máo. Bố mắng tơi bời. Mẹ thì không. Tôi nằm trên gác khóc suốt. Sao
người ta ác thế, sao ăn cắp xe của tôi, khoá rồi mà. Ngày đó tôi ngây
thơ và gà tồ kinh khủng. Không thấy tôi đi học hay đến thư viện Văn hoá
Đức, T tìm đến nhà. Thấy mắt sưng, T hỏi. Rồi thì T nói: “Tôi sẽ đi hỏi
cho LC. Tôi quen tên đầu đảng, trùm ăn cắp xe ở vùng…” Tôi tròn mắt. T,
anh chàng đẹp giai, thông minh, đàn hay, vẽ giỏi quen trùm du đãng! Thấy
tôi tròn mắt, T chỉ cười. Hôm sau T quay lại: “Bạn tôi không tìm được
vì không phải vùng nó kiểm soát. Tụi nó rã xe nhanh lắm.”
Tôi nghỉ học mấy bữa. T lại tìm đến :
– LC à, LC lấy xe PC của tôi đi học đi. Tôi còn cái Mini Vespa mà.
Tôi đỏ mặt. T là vậy. Muốn nói gì là nói. Chẳng ngán ai.
Còn
Hội Việt Mỹ thì thư viện to, đẹp. Đa phần tôi viết truyện tình đăng báo
ở đây! Nhớ lại cũng vui. Khi báo đăng, tôi cắt và đem vào trường cho
bạn xem. Bạn gái xem thì ít (nhỏ Mai không có tâm hồn văn chuơng) nhưng T
xem thì nhiều. Có khi ngang đến độ bỏ giờ học, ngồi ở thềm của lớp để
xem truyện cuả tôi! Bởi thế mấy chục năm sau, có người nghi ngờ, đoán
rằng T, bạn ông ấy cũng chính là T ngày xưa của Khoa học, đã mét T. T
tìm đọc và đã nhận ra văn phong của tôi. “Văn LC lúc nào cũng vậy. Vẫn
rất nhẹ nhàng , thơ mộng”. Văn vẫn vậy nhưng cuộc đời thì không vậy, bao
nổi trôi sóng gió cho cô nhỏ được một số ông ở khoa học gọi là “người
có đôi mắt đẹp nhất phòng Hoá”!
Tình hình chiến sự ngày một leo thang. Tôi nhớ những sự kiện đăc biệt như:
–
Vụ đầu cơ gạo của thương buôn Tàu và Tướng Kỳ đã “chơi ngon”, ra lịnh
xử tử Tạ Vinh. Ông tướng này thuộc loại võ biền, ruột để ngoài da, phát
biểu như cao bồi Texas. Chẳng cần biết sau này Tạ Vinh có bị xử tử thật
hay không nhưng lập tức vụ gạo được ổn định.
– Năm nào đó tôi tẩy chay không đi bầu khi Tướng Thiệu độc cử.
Vật
giá ngày leo thang luôn. Thì như đã nói, quân Mỹ xài phung phí, “me Mỹ”
xài vung vít. Chỉ còn giới trung lưu như giáo chức là khốn đốn. Tôi vẫn
sống trong tháp ngà. Chiến tranh có làm suy tư thì chỉ trong phút chốc.
Việc học cuốn hút. Và những ngày thứ bảy cuối tuần vẫn vi vút dạo phố
Sài Gòn ăn quà. Tuổi học trò thích nhất là ăn hàng. Tiền bố phát hàng
tuần eo hẹp lắm vì nhà giáo mà. Nên tôi đã bổ sung ngân quỹ ăn hàng bằng
các bài viết cho Tiếng Vang, Sống, Chính luận.
Thời
tiết Sài Gòn ngày ấy không như bây giờ. Vì tôi nhớ đi học phải mặc áo
dài suốt ngày. Nhà xa, sáng học thực tập, trưa ở lại và chiều học lý
thuyết. Có lẽ ảnh hưởng thời tiết chung toàn thế giới và cũng vì Sài Gòn
không quá đông như bây giờ? Mấy cô bạn Gia Long cũ, bỏ đi làm từ khi
đậu tú tài thì có cô vô Ngân hàng, lương rất cao. Cô thì làm cho hãng
Pháp, lương coi như khoảng một lượng vàng một tháng. Lương chuẩn uý gần
một lượng. Quân nhân được mua hàng rẻ gọi là quân tiếp vụ. Đa số mua
xong, đem ra ngoài bán lại cho con buôn. Hồi đó có phong trào làm cho sở
Mỹ vì lương rất cao. Thanh niên sinh viên lai rai biểu tình. Cứ “biểu”,
cảnh sát biết hết ai là ham vui, ai là đặc vụ nằm vùng.Tôi chưa bao giờ
tham gia hay đi xem. Vì chăm học quá mà ? Nhưng đừng nghĩ rằng không
nghe tiếng đại bác trong tháp ngà! Vẫn nghe đấy chứ. Cũng có những niềm
riêng khắc khoải. Nhưng mục tiêu phía trước phải đạt cho xong…

Tôi
ra truờng năm 1971. Thân cư Mệnh nên suốt đời tự lo. Họ hàng, cha mẹ
không giúp dù quen biết nhiều. Tôi viết bài “Ba lần văn bằng cử nhân đi
xin việc làm” đăng trên Chính Luận. Nhà báo nói láo ăn tiền, bi thảm hoá
thêm. Chàng Giám Đốc Nha Viện Trợ trực thuộc Tổng Nha Kế Hoạch viết thư
mời cô cử đến cộng tác.
Thế là hết
những ngày lang thang sân truờng đại học. Hết những ngày khúc khích với
anh trên đường Khắc Khoan, nghe lá me xanh reo trên tầng cao, hết những
chiều thứ bảy cùng cô bạn thân ăn hàng chợ Sài Gòn, hết những ngày trong
giảng đường nhỏ giờ Thầy Thới, nghe được cả tiếng muỗi vo ve, hết cả
những giờ xem hai phe chống và thích rượt nhau trong sân truờng khoa
học.
Tôi bắt đầu vào đời. Từ ấy…
Sài
Gòn của tôi có những nét khác hơn của thuở học trò. Nhưng vẫn là Sài
Gòn của mưa nắng hai mùa, của áo lụa Hà Đông giữa trưa hè nóng bỏng, của
tiếng chuông chùa Xá Lợi ngân nga. Của giáo đường nhà Thờ Đức Bà tung
bay muôn màu áo chiều chủ nhật.
Sài
Gòn với áo dài tha thuớt. Áo Sài Gòn không biết ngồi sau lưng Honda hai
bên như bây giờ. Áo Sài Gòn không biết phóng xe ào ào như bây giờ. Áo
Sài Gòn không cười hô hố trên đường phố như bây giờ. Áo Sài Gòn không
cong cớn như bây giờ…
Và tôi, bao năm tháng trôi qua, vẫn một niềm hoài vọng về Sài Gòn ngày ấy…
Xin trả cho tôi nắng Sài Gòn
Thênh thang đường phố lụa Hà Đông
Xin trả cho tôi mưa ngày ấy
Và trả cho tôi cả cuộc tình…
Thênh thang đường phố lụa Hà Đông
Xin trả cho tôi mưa ngày ấy
Và trả cho tôi cả cuộc tình…
Hoàng Lan Chi
Đăng lại từ bài viết “Sài Gòn ngày ấy” của tác giả Hoàng Lan Chi (vantuyen.net)
Nguồn hình ảnh minh họa từ Saigonxua.org và Fanpage Saigonxua
Độc giả quan tâm có thể ghé thăm Fanpage để tìm hiểu về Sài Gòn xưa.
Độc giả quan tâm có thể ghé thăm Fanpage để tìm hiểu về Sài Gòn xưa.
Monday, June 18, 2018
Biểu tình thời @...
Cuối tuần ra đường bỗng thấy
cái gì ngộ ngộ. Ngã 3 ngã 4 nào cũng mấy chú công an trẻ măng, áo quần mủ giáp
chểm chọe, hàng rào kẻm gai, súng ống đồ chơi đầy đủ. Ngang siêu thị Coop –
Mart, ngang trường học..., nghe lồng lộng tiếng loa nhắn nhủ lẫn hù dọa người
dân chớ dại dột nghe lời xúi giục ai đó tụ họp đông người. Té ra Sài Gòn đang sống
lại không khí chập chờn mưa nắng những ngày “biểu tình”.
Nói chi Sài Gòn và nhiều xứ lớn,
xứ biển quê tui cũng tham gia phá lưới phút bù giờ. Nghe nói Phan Thiết người
biểu tình phá hàng rào tòa Tỉnh, Phan Rí đốt xe cảnh sát, toàn vào ban đêm và
hiệp một toàn thắng. Tên Phan Thiết Phan Rí còn giải thích mức độ nào đó từ nguồn
gốc tiếng Chăm, nhưng tên Bình Thuận thì đến nay, thú thật tôi vẫn chưa nghĩ ra
tại sao vua Gia Long chọn đặt tên này. Chỉ biết, mỗi khi nghĩ về nơi chôn nhau
cắt rún, hay đôi khi phải giới thiệu với người khác về quê quán của mình, tôi
thật bình yên dễ chịu. Bình Thuận cũng miền Trung nhưng không “ăn rau má phá đường
tàu”, không ưa cải, ưa lo, ưa co, ưa ních. Bình Thuận gần miền Đông nhưng cũng
chưa nghe miệng người bản địa nói những từ
kiêu hãnh anh dũng anh hùng chiến thắng. Theo bước Nam tiến lịch sử, người
miền Bắc miền Trung tụ họp về vùng đất duyên hải Bình Thuận, đất lành chim đậu.
Dân biển thường thật thà nhưng cộc tính, nói lớn nhưng hiền lành (tâm Phật khẩu
xà), ít học nhưng lanh lẹ mau hiểu. Biển giả chứ không thật, cá tôm năm được
năm mất, lại lênh đênh trên sóng biển, sống nay chết mai, nên đàn ông ưa nhậu
nhẹt, đàn bà ham cờ bạc, con nít được dịp ham chơi. Nghề biển thường phải hành
nghề tập thể nhiều người, cả đánh bắt thu nua chế biến cũng thành hình các quan
hệ gắn kết theo “dây chuyền công nghiệp” chặt chẽ, từ đó hình thành thói quen,
tính cách, lối sống và cả văn hóa “ba đờ...” người dân biển Bình Thuận. Đen
đúa, nghêu ngao đất trời, không sợ đứa nào thằng nào con nào, nhưng người dân
vùng biển ít ham làm “chính trị chính em”. Sau 75, dân núi dân ruộng về làm
chính quyền là chính.
Vậy mà lại nghe quê mình “đồng
khởi”, trên mạng tung cả hình cảnh sát bị đánh chảy máu, ngờ ngợ sao ấy. Lại có
chuyện có người cho mấy trăm nghìn bạc để đi biểu tính ném bom xăng đốt xe cảnh
sát, phản đối khu đặc khu lỏng gì đó, giống y màn kịch sinh viên Sài Gòn đốt xe
Mỹ trước giải phóng. Hì hì, muốn tin cũng tin không nỗi. Dù rằng, thông tin đám
mây cho biết công an cảnh sát quân đội khắp nơi ào ào về nơi gió cát. Chắc rảnh
rổi chơi nhau hay diễn tập gì đó, phe ta
chống phe mình cho có chuyện làm, rung cây nhát khỉ giương đông kích tây gì đó, đở buồn. Chỉ hơi
hơi tức, một con nhà đài và một thằng nhà báo, dám lộng ngôn nói xấu dân Phan
Rí cửa toàn ngồi chơi chờ nhận tiền hàng người thân nước ngoài gửi về, toàn
giang hồ xì ke trộm cướp.
Hơi khác Bình Thuận, Sài Gòn
biểu tình ban ngày và không phá phách, bị CA đánh chứ không dám rượt CA. Mà sao
cứ lựa toàn weekend, bọn trẻ hẹn hò trên mạng, đeo khẩu trang như người nhện,
chạy xe gắn máy lòng vòng đánh du kích y chang thời trước. Cũng có chiêu hồi, 2
mang, khổ nhục kế..., nhưng hiện đại hơn cho phù hợp thời đại @ và thực tế vai
diễn cũng đã thay đổi 180 độ sau gần 50 năm. Giang hồ trộm cướp mới ra tù cũng
lên mạng chít chát xúi dân biểu tình, mấy đứa oắc con giả CA (?) xúi biểu tình,
việt kiều Mỹ cũng lơ ngơ theo đoàn biểu tình… Thật giả, giả thật, không biết đường
nào mà lường. Thật ra CA nào cũng là CA, giang hồ nào cũng là giang hồ. Ở VN, tốt
nhất là làm những gì luật cho phép hay luồn lách những gì luật cấm. Luật biểu
tình chưa có, đừng dại dột biểu tình cho mệt. Luật tham nhũng có, hãy tính chuyện…
tham nhũng, vô tư.
Sài Gòn mùa worldcup, buồn.
Dân ham bóng đá hồi hộp, thế giới mua bản quyền hết rồi, cả Lào Kampuchia, còn
đài truyền hình quốc doanh VN vẫn chưa chịu mua, linh cảm sợ ”bán” lỗ. Phút 89,
nhờ đại gia Vingroup tài trợ 5 triệu đô, hú hồn. Mà đúng thiệt, sau màn dọa khỉ,
tung tin FIFA không cho các quán cà phê cóc xem đá bóng trên TV mà không có bản
quyền, đến màn CA chìm nỗi tư tung tự tác lục soát bắt bớ người thật ngồi uống
trong các quán cà phê. Mọi lần worldcup trước, các nơi vui chơi giải trí, cả câu
lạc bộ thành đoàn thanh niên CS… đều lắp tivi màn hình to đùng, tha hồ la hét
cá độ lon thùng. Nay im thin thít, vắng như chùa bà Đanh, chác lại sợ bọn nhỏ
meeting thời @ theo các scannaro chưa kịp định hướng.
Sau cơn mưa trời lại sáng. Nhớ
lại, sau 75 với màn kịch phục quốc, năm 2014 với màn kịch công nhân Bình Dương
chống TQ đập phá nhà máy, và nay 2018 với cảnh người dân Bình Thuận biểu tình đốt
xe phá phách các tòa nhà công quyền. Cũng cái kết bắt bớ tù đày quy chụp lung
tung và thật ra cũng không ai biết đâu là sự thật. Nếu biết cũng chỉ là phần
chìm của tảng băng, phần nỗi vẫn do bọn đầu cơ chính trị tham vọng cá nhân thao
túng dàn cảnh bày trò.
Chỉ tội nghiệp cho người dân
biển quê tôi, mãi chịu cảnh co ro trong mùa biển động.
Phạm Sanh, 72PBC
Subscribe to:
Posts (Atom)