Friday, December 15, 2017

Nam Phương Hoàng Hậu qua Wikipedia English and Vietnamese



Nam Phương
From Wikipedia, the free encyclopedia
Nam Phương
Empress of Vietnam
Nam Phương on her wedding day, 1934
Born
14 December 1914
Gò Công, Cochin-China
Died
16 September 1963 (aged 48)
Chabrignac, Corrèze, France
Burial
Spouse
Issue
Crown Prince Bảo Long
Princess Phương Mai
Princess Phương Liên
Princess Phương Dung
Prince Bảo Thắng
Full name
Nguyễn Hữu Thị Lan
Father
Nguyễn Hữu-Hào
Mother
Lê Thị Binh
Empress Nam Phương (14 December 1914 – 16 September 1963), born Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, baptised Marie-Thérèse later Imperial Princess Nam Phương, was the first and primary wife of Bảo Đại, the last emperor of Vietnam, from 1934 until her death. She was also the second and last empress consort (hoàng hậu) of the Nguyễn Dynasty.

Background
Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan was born in Gò Công, a Mekong Delta town in what was then the French colony of Cochinchina, one of the three areas (the others being the protectorates of Annam and Tonkin) that composed the Union of French Indochina.[1][2]
Her father, Pierre Nguyễn Hữu-Hào, described as a wealthy merchant,[3] had been born into a poor Roman Catholic family in Gò Công.[4] Through an introduction from the Archbishop of Saigon, he became secretary to the billionaire Lê Phát Đạt, Duke of Long-My, and eventually married his employer's daughter, Marie Lê Thị Binh, and inherited his title.[4][5]
A naturalized French citizen, Nguyễn Hữu Thị Lan, who was known as Mariette, studied at the Couvent des Oiseaux, an aristocratic Catholic school located in Neuilly-sur-Seine, France, where she was sent at the age of 12.
She was a distant cousin of her future husband, the emperor.[6]
Marriage
On 9 March 1934, the public announcement of the engagement of Nguyễn Hữu Thị Lan and Bảo Đại, King of Annam, was released. (In the 19th century, the occupying French forces had diminished the rank of the country's emperor to king, a situation that was not reversed until 1945.)[7] In it, Bảo Đại stated, "The future Queen, reared like us in France, combines in her person the graces of the West and the charms of the East. We who have had the occasion to meet her believe that she is worthy to be our companion and our equal. We are certain by her conduct and example that she fully merits the title of First Woman of the Empire."[3]
After a formal betrothal ceremony in the imperial summer palace in Da Lat,[8] the king married Nguyễn Hữu Thị Lan on 20 March 1934, in Huế. The ceremony was Buddhist, though the ruler's Catholic fiancée caused some controversy; the country's population was not entirely in favor of the bride's religious affiliation.[9] Others suspected that the marriage "smelled high of French chicanery."[10] The New York Times reported that "discontent was general" in the country, given that Nguyễn Hữu Thị Lan had declined to renounce Catholicism and was appealing to Pope Pius XI for a dispensation.[11] Another article noted that there was much discussion over a report that the pope might allow the bride to "remain a Catholic if she gave the Church her girl children."[10] Further complicating the wedding plans was the apparent disapproval of the young monarch's mother, Doan Huy, and his late father's secondary wives, all of whom had other bridal candidates that Bảo Đại apparently did not consider.[12]
At the state ceremony that marked the end of the four-day wedding festivities, Nguyễn Hữu Thị Lan was given the title 'Imperial Princess' and the name Nam Phương, which can be roughly translated as 'Fragrance of the South', in acknowledgment of her place of birth.
Time on 2 April 1934 closely followed the traditional royal nuptials:
"Little Mariette Nguyen Huu Hao was beautifully married. It took four days. On her way up Annam's great mandarin road along the coast she stopped off to climb a mountain and drink of the "frozen spring." Outside Huê, a cavalcade of palace mandarins on short native Phu-Yen horses met her in the Valley of Clouds and escorted her through the three walls of the Red City into the Palace of Passengers. Next day, dressed in a great brocaded Annamite gown, she stepped into an automobile and was driven to the Emperor's Palace, followed by the Imperial princesses and the blue-turbaned wives of the mandarins. Two scrolls, on which were written a prayer to Bảo Đại's ancestors and the name and age (18) of Nguyen Huu Hao, were burnt on the altars. Finally the two young people were brought face to face and married. It took three more days of Buddhist rites behind the locked gates of the Red City to complete the ceremony. On the fourth day a battalion of mandarins led in musicians and the bearers of the royal insignia. The new Queen, her hair elaborately wound about a tiara encrusted with precious stones, received the Imperial seal and the golden book. Finally she arose and bowed her forehead to the floor three times, in the traditional Chinese kowtow (pronounced ker-toe) of thanks."[10]
At the time of her marriage, a song was written in her honor:[10] "In the firmament of the Son of Heaven a brilliant new star has risen!/Supple as the neck of the swan is the charm of her graceful form./Her black and sparkling eyes, in hours of ease, envelop and thrill that happy mortal allowed to see./O, Nguyễn Hữu-Hào! Beautiful are all thy ways."
Children
The emperor and empress had five children, most of whom were educated at the French boarding school their mother had attended, Convent des Oiseaux:[1]
Crown Prince Bảo Long (4 January 1936 – 28 July 2007).[13]
Princess Phương Mai born on 1 August 1937 (married Don Pietro Badoglio, 2nd Duke of Addis Abeba and Marquis of Sabotino).
Princess Phương Liên born on 3 November 1938 (married Bernard Maurice Soulain).
Princess Phương Dung born on 5 February 1942.
Prince Bảo Thắng born on 30 September 1943.
Created empress
Nam Phuong stamp, published in 1950s
On 18 June 1945, Nam Phương was raised in rank from Her Majesty to Her Imperial Majesty. She also was granted the title of empress, her husband having assumed the title of emperor after proclaiming the country's independence from France, as he had been urged to do as a member of Japan's Greater East Asia Co-Prosperity Sphere. At this time, Tonkin, Cochinchina, and Annam, which came under the control of Imperial Japan after World War II, were reunited to become the Empire of Vietnam, a puppet state. However, the new emperor was soon convinced to abdicate the throne by the revolutionary leader Hồ Chí Minh, head of the Việt Minh. The former emperor returned to Vietnam in 1949 at the invitation of the civilian government and was named head of state, but he went into exile again in 1954.
Influence on fashion
Nam Phương's first official visit to Europe, in the summer of 1939, launched a craze for what one reporter described as "trousers and embroidered tunics for evenings; pagoda silhouettes, [and] revers or sleeve forms."[14] To the surprise of fashion observers, when she met with Pope Pius XII during that trip, "the visitor from Indochina did not wear the traditional black, long-sleeved gown and veil. Instead, she appeared in a gold, dragon-embroidered tunic, red scarf, and gold hat. She wore silver trousers."[15]
Later life
Nam Phương served as a member of the Reconstruction Committee for Vietnam after the end of World War II and was the patron of the Vietnamese Red Cross.
In 1947, after the Communist takeover of the country, the empress and her children moved to Château Thorens, outside of Cannes, France, which had been in the family since its purchase by her maternal grandfather in the early 20th century.[4] She separated from her husband in 1955. Two years later, when the Vietnamese government announced its confiscation of the imperial family's personal property, the bill specifically excluded any real estate owned by the empress prior to 1949.[16] These properties included her father's villa at Da Lat, which is now Lam Dong Museum.[2][3]
Death
Empress Nam Phương died on 16 September 1963 from a heart attack, at Domaine de La Perche, her home near the small rural village of Chabrignac, Corrèze, France.[17] She was buried in the local cemetery.[18]
Portrayal on film
The empress was portrayed by the actress Yen Chi in the 2004 Vietnamese miniseries "Ngọn nến Hoàng cung" ("The Imperial Palace's Candlelight").[4]
Titles and styles
Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan (1914–1934)
Her Majesty Nam Phương, Imperial Princess of Annam (1934–1945)
Her Imperial Majesty Nam Phương, Empress of Vietnam (1945–1963) 

 Nam Phương (hoàng hậu)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nam Phương Hoàng Hậu
南芳皇后
Nam Phương hoàng hậu trong triều phục, 1934.
Tại vị
20 tháng 3 năm 193425 tháng 8 năm 1945
(11 năm, 158 ngày)
Tấn phong
Tiền nhiệm
Kế nhiệm
Không có
Chế độ phong kiến sụp đổ
Thông tin chung
Phu quân
Hậu duệ
[hiện]Hậu duệ
Tên đầy đủ
Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Thị Lan
Hoàng tộc
Thân phụ
Thân mẫu
Sinh
Mất
16 tháng 9, 1963 (48 tuổi)
Corrèze, Pháp
An táng
Tôn giáo
Nam Phương hoàng hậu (chữ Hán: 南芳皇后; 14 tháng 12 năm 1914 - 16 tháng 9 năm 1963) là hoàng hậu của hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.[1]
Bà cùng với Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, chính thất của Gia Long, là 2 vị Hoàng hậu trong hoàng tộc nhà Nguyễn mang tước vị Hoàng hậu (皇后) khi còn sống. Bà cũng là hoàng hậu cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn và chế độ Quân chủ Việt Nam. Bà đã có công đề xướng việc thành lập và mở các trường thuộc dòng Đức Bà (Congrégation Notre-Dame) tại Việt Nam vào năm 1935.
Thân thế
Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào có tên thánh là Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan sinh ra tại Gò Công (nay thuộc thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình Công giáo giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy giờ. Cô là con gái của ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình (bà Bình lại là con gái của Lê Phát Đạt, tục gọi là Huyện Sỹ) ở Nam Kỳ, một trong bốn người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 20.[2]
Vợ chồng ông Pierre Nguyễn Hữu Hào chỉ sinh được hai con gái. Người con gái đầu là Marie-Agnès Nguyễn Hữu Hào sinh năm 1903; con gái thứ hai là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào, nhưng sau này ghi trong giấy khai sinh quốc tịch Việt Nam là Nguyễn Hữu Thị Lan, còn tên theo Pháp tịch phải ghi thêm là Jeanne Mariette Thérèse. Năm 1928, khi 25 tuổi, cô chị gái Agnès kết hôn với bá tước Pierre Jules François Didelot[3] (người này sinh ngày 7 tháng 8 năm 1898 tại Saint-Rémy en Bouzemont, 51 Marne, Grand Est, Pháp).[4] Hai người sinh được một con gái là Marie-Agnes Elisabeth Didelot vào năm 1930.[5]
Cuộc sống của hai chị em cứ khách quan mà nói là sung sướng, đầy đủ, được cưng chiều. Họ đã sống tuổi thanh xuân êm đềm và mơ mộng, và có lẽ đó là giai đoạn hạnh phúc nhất đời của người thiếu nữ sau này làm hoàng hậu. Theo những bức hình chụp trong tờ Indochine thì cả hai chị em đều cao lớn hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam bình thường. Hai chị em đến ở trong căn nhà của gia đình tại Sài Gòn để đi học chứ không ở quê hương Gò Công. Các tiểu thư ở đường Nguyễn Du, mỗi sáng đi nhà thờ thì băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường Bùi Thị Xuân chừng nửa cây số là tới nhà thờ Chợ Đũi. Nhà thờ này do ông Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt (ông ngoại Nam Phương) hiến nhiều tiền của để xây dựng nên về sau gọi là Nhà thờ Huyện Sỹ.[6].
Năm 12 tuổi, Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan được gửi sang Pháp theo học tại trường nữ sinh danh tiếng Couvent des Oiseaux, Paris. Tháng 9 năm 1932, sau khi thi đậu tú tài toàn phần (tương đương với tốt nghiệp trung học), Nguyễn Hữu Thị Lan về nước trên con tàu D’Artagnan của hãng Messagerie Maritime. Vua Bảo Đại hồi loan cũng đi cùng chuyến tàu đó nhưng hai người không gặp nhau[7].
Theo cụ Phạm Khắc Hoè, cựu Đổng lý Ngự tiền Văn phòng của Bảo Đại, năm 1983 đã viết trong hồi ký Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc, trong đó cũng có đoạn nói về cuộc hôn nhân của Bảo Đại:
“… Trong cuộc kết hôn giữa Bảo Đại với Nguyễn Hữu Thị Lan lý trí nặng hơn tình cảm nhiều. Cô Lan lấy Bảo Đại chủ yếu là để lên ngôi Hoàng hậu. Bảo Đại lấy cô Lan chủ yếu là để đào mỏ. Về mặt tình cảm nếu có thì cũng chỉ là bề ngoài: hai người đều khoẻ mạnh, yêu thể thao và quen sống lối phương Tây. Còn về tính tình, tâm tư thì hầu như trái ngược nhau. Bảo Đại nông cạn, ngây thơ, nhu nhược, thích ăn chơi hơn là quyền bính. Ông ta có thể phục thiện nhưng rất dễ bị bọn cơ hội lợi dụng. Trái lại, Nam Phương là người kín đáo, trầm tĩnh, sâu sắc, có cá tính, có đầu óc suy nghĩ, thích đọc sách, nghiên cứu hơn là ăn chơi … thích uy quyền và có nhiều tham vọng chính trị”.
Tham vọng của Nam Phương là khi có con trai sẽ phong làm Thái tử để nối ngôi và quyền bính sẽ do bà Thái hậu Nam Phương nắm giữ. Sau này, có người hỏi bà Nam Phương tại sao bà lại lấy một ông vua không có đạo, lại ăn chơi trác táng, rồi sau đó còn năm thê bảy thiếp, không kém gì những ông vua tiên đế. Bà Nam Phương trả lời là: "Việc này do Chúa định, tôi biết nói làm sao được".
Hôn sự
Nam Phương hoàng hậu trong triều phục, 1934.
Về Việt Nam được gần một năm, khi vua Bảo Đại lên nghỉ mát tại Đà Lạt, và được sự dàn xếp của vị Toàn Quyền Pháp Pasquier và viên Đốc lý Darles (Thị Trưởng) Đà Lạt, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace tại Đà Lạt do Toàn quyền Đông Dương và viên Đốc lý[8] thành phố sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.
Về cuộc tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt Nam:
"Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỉ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam".
Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại:
"Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi [9] và tôi đến dự dạ tiệc ở Hôtel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài và chỉ mặc cái áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: "Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được". Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)
Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài".
Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu Thị Lan, ông viết lại: Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Và khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình Nguyễn Hữu Thị Lan ra điều kiện:
Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay trong ngày cưới.
Được giữ nguyên đạo Công giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.
Phải được Tòa Thánh cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau.[10]
Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối. Trước Hoàng Tộc Triều Nguyễn, Bảo Đại đã nói: "Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân [11] và Triều đình."
Hoàng hậu Nam Phương trên một con tem Đông Dương thuộc Pháp, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng lại.
Nam Phương Hoàng hậu
Hôn lễ được tổ chức ngày 20 tháng 3 1934Huế. Khi đó Bảo Đại hoàng đế đúng 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan 20 tuổi. Ngay ngày hôm sau, lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Hoàng đế phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu.
Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các chính cung trong triều Nguyễn. Vì mười hai đời Tiên Đế nhà Nguyễn trước, các bà chánh cung chỉ được phong tước Hoàng quý phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng hậu.
Hoàng hậu Nam Phương trên một con tem Quốc gia Việt Nam.
Bảo Đại có giải thích thêm về hai chữ Nam Phương như sau: "Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng Đế".
Nguyễn Hữu Thị Lan mang quốc tịch Pháp và theo đạo Công giáo. Khi cựu Khâm sứ Trung kỳ là ông bà Charles viết thư xin phép Toà Thánh cho Nam Phương được kết hôn với Bảo Đại và mỗi người giữ đạo riêng. Nhưng Giáo hoàng Piô XI đã không chấp nhận. Việc đã lỡ rồi, nên đám cưới của Bảo Đại với Thị Lan vẫn cứ tiến hành. Vì vậy Giáo hoàng đã rút phép thông công không cho Nam Phương xưng tội và rước lễ như trước khi lấy Bảo Đại. Sau khi kết hôn, Bảo Đại nghe theo lời của vợ chồng Charles là nên tặng huy chương cho mấy Giám mục người Pháp, người Ý và Khâm sứ Toà thánh ở Huế để lấy lòng Toà Thánh thì tương lai sẽ được Toà thành tha phạt vạ bà Nam Phương. Giáo hoàng Piô XI qua đời ngày 10-2-1939, và ngày 12-3-1939 Giáo hoàng Piô XII lên kế vị nên đã xét lại và chấp nhận cho Bảo Đại cứ giữ đạo Phật, còn Nam Phương cứ giữ đạo Công giáo, nhưng các con khi sanh ra phải được rửa tội để nhập đạo Công giáo theo người mẹ là bà Nam Phương. Vì thế, sau đó hai vợ chồng Bảo Đại và Nam Phương đã sang ngay La Mã xin yết kiến để cảm ơn Giáo hoàng Piô XII.
Sau lễ cưới, Bảo Đại hoàng đế cùng Nam Phương hoàng hậu dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện này xây cất từ thời Khải Định Khải Định hoàng đế, nhưng đã được sửa chữa và tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều Bảo Đại.
Đêm ngày 4 tháng 1 năm 1936, người dân Huế nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương hoàng hậu đã hạ sinh, và lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành, báo hiệu Hoàng hậu đã sinh một Hoàng tử[12]. Người đó chính là Đông cung Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long.
Nam Phương hoàng hậu cùng Bảo Đại hoàng đế có tất cả năm người con:
Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, tước phong Hoàng thái tử.
Phương Mai công chúa, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937.
Phương Liên công chúa, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938.
Phương Dung công chúa, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942.
Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943, Nhị hoàng tử.
Khi đó công việc hàng ngày của Hoàng hậu là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng bà phải cùng các quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Từ Cung Hoàng thái hậu, tức mẹ của Bảo Đại Đế. Hoàng hậu còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Hàng năm bà đều tham dự các buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Theo lời nữ sĩ Đạm Phương thì có lần Hoàng hậu bảo bà làm đơn xin phép Bộ Giáo dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường.
Hoàng hậu cũng xuất hiện thường xuyên bên cạnh Bảo Đại hoàng đế trong các nghi lễ ngoại giao như đón tiếp Thống chế Tưởng Giới Thạch của Đài Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong nước Lào hoặc Quốc vương Sihanouk của Cao Miên... Lần Bảo Đại Đế tự mình lái xe hơi đi thăm Nam Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng. Là người Công giáo, hoàng hậu đã đem lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Công giáo ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn, vốn trước đó có những quan hệ căng thẳng kéo dài.
Trở về cuộc sống thường dân
Sau tháng Tám 1945, ngày 25 tháng 8 Hồ Chí Minh điện cho Bảo Đại yêu cầu ông ban dụ thoái vị. Ngày 30 tháng 8 1945, Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho ông Trần Huy Liệu. Tháng 9 năm 1945, ông ra nhận chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ. Ngày 16 tháng 3 1946, ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm viếng Trung Hoa, nhưng không trở về nước. Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 1946, thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Huế. Hoàng hậu Nam Phương rời khỏi thành nội ra sống ngay tại khách sạn Morin, lúc này đây khách sạn duy nhất trong kinh đô Huế để chờ đợi thời cơ sang Pháp, cũng như tránh khỏi cuộc chiến chính trị trong Thành Nội. Ngày 1 tháng 1 1947 Nam Phương hoàng hậu cùng các con sang Pháp.
Tuy vậy, Nam Phương hoàng hậu được nhiều người đánh giá là người thiết tha với đất nước. Theo tài liệu của sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:
Sau khi quân Pháp dựa vào thế lực của quân Anh quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. Lúc đó vua Bảo Đại đã thoái vị, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu. Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gửi một thông điệp cho bạn bè ở Á châu yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như sau:
"Kể từ tháng 3 năm 1945, nước Việt Nam đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành động này của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.
Thay mặt cho hàng chục triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi"
Hoàng hậu Nam Phương cũng là người tiêu biểu trong các bà mệnh phụ nhiệt tình với "Tuần lễ Vàng" do Việt Minh phát động tại Huế. Hôm ấy, ngày 17 tháng 9 1945, bà là người đầu tiên đến bên một cái bàn trải khăn đỏ rồi từ từ tháo hết số hàng trang sức bằng vàng đang mang trên người.
Di cư
Nam Phương Hoàng hậu rời Việt Nam năm 1947. Năm 1949, Bảo Đại trở về Việt Nam ngồi ghế “Quốc trưởng”, nhưng bà Nam Phương vẫn ở bên Pháp. Những ngày nghỉ lễ, bà Nam Phương thường đi phố cùng các con để mua đồ chơi cho chúng hoặc đi xem chiếu bóng với hoàng tử Bảo Thắng, công chúa Phương Dung là hai người con nhỏ nhất. Tại Pháp ban đầu bà Nam Phương ở lâu đài Thorenc tại Cannes. Cũng có những lúc Bảo Đại về Pháp, bà Nam Phương cùng đi với Bảo Đại tới casino để xem ông chơi baccarat hoặc roulette cho vui. Những lần có bà cùng đi, nếu được bạc thì Bảo Đại tặng hết cho bà để sắm sửa quần áo.
Nam Phương Hoàng hậu ưa thời trang của hãng Christian DiorBalmin. Bà cũng ăn mặc sành điệu và màu tím nhạt là màu bà ưa thích nhất. Hàng ngày sinh hoạt của bà là chăm lo cho các con hay đọc sách báo hoặc ra vườn trồng hoa, tỉa lá. Buổi tối bà thích chơi dương cầm cho các con nghe.
Trong phòng bà, người ta thấy treo những bức họa của Renoir, Buffet. Bà không thích tranh lập thể của Picasso vì tâm hồn không hợp với trường phái hội họa này cũng như siêu thực. Trong nhà bà có cả một đàn chó, có một con thuộc giống Saint Berard. Về thể thao bà có thể chơi bóng bàn, quần vợt và golf nhưng không giỏi lắm.
Ngay cả ông Bảo Đại cũng chưa bao giờ dám trách vợ về việc trai gái, vì kể từ ngày ly thân với Bảo Đại, bà Nam Phương không có một người nhân tình nào, dù là đi khiêu vũ hay đi tắm biển với một người đàn ông nào khác.
Sau năm 1955, Bảo Đại để bà Nam Phương ở nhà một mình với mấy người con khi đó đã lớn, mỗi người đi làm một nơi. Về sau, bà Nam Phương rời lâu đài Thorenc ở Cannes để về sống ở lâu đài Domain de la Perche ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Nouvelle-Aquitaine cách Paris chừng bốn năm trăm cây số.
Ngôi nhà của bà có rừng bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách. Về đời sống vật chất thì bà Nam Phương không lúc nào thiếu thốn khi sống ở xứ người. Tài sản riêng do gia đình Nguyễn Hữu Hào tậu cho bà gồm một chung cư lớn tại Neuilly và ở đại lộ Opera. Ngoài ra bà còn nhiều nhà đất ở bên xứ Maroc, Congo...
Nhưng những bất động sản này bà đã chia cho các con mỗi đứa một phần riêng và chỉ giữ lại trang trại ở Charbrignac, gồm 160 mẫu đất với một đàn bò gần trăm con và một vườn hồng lúc nào cũng nở hoa. Nhà của bà ở cách biệt với những nhà dân ở vùng này, vì là làng quê nên mọi người ít có dịp giao thiệp với nhau. Và đã có lần bà Nam Phương ngỏ ý được trở về Việt Nam để được chết và an tang bên cạnh hai mộ thân sinh và thân mẫu ở Đà Lạt. Nhưng Bảo Đại và các con của bà phản đối không cho bà về.
Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của công chúa Phương Liên kết hôn với chàng trai người Bordeaux. Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con mới có dịp về thăm bà.
Những năm sau này bà Nam Phương ít đi ra ngoài và gặp gỡ ai. Cũng có đôi khi bà Nam Phương đi Paris để thăm các con đang học và làm ăn ở đó. Và ngược lại những dịp hè thì các con có về đây thăm mẹ ở ít ngày cho bà đỡ buồn. Thời gian này bà bị bệnh tim nặng làm khó thở.
Qua đời
Ngày 14 tháng 9 năm 1963, sau khi ra nắng bị cảm lại đi tắm bà bị sốt cao, bà thấy đau họng. Bác sĩ tới thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số. Nhưng vì bệnh viện ở xa, bác sĩ không tới kịp nên bà đã ra đi vào lúc 5 giờ chiều.[13].
Ngoài hai người giúp việc trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút lâm chung. Khi đó các con bà đang đi học hoặc làm ở Paris, còn Bảo Đại sống ở miền Nam nước Pháp.
Đám tang của bà Nam Phương được cử hành theo nghi thức đạo Công giáo rất đơn giản. Đám tang vỏn vẹn chỉ có các Hoàng tử, Công chúa và một số bạn bè thân thiết của gia đình. Tại địa phương có vị Tỉnh trưởng và dân biểu địa phương bà Nam Phương cư ngụ tới chia buồn và dự tang lễ. Đặc biệt có sự tham dự của Công chúa Như Lý, con gái của vua Hàm Nghi. Công chúa Như Lý cũng ở gần nơi bà Nam Phương cư ngụ, nhưng chưa bao giờ khi bà Nam Phương còn sống bà Như Lý tới thăm mà duy nhất lần này bà Nam Phương tạ thế Công chúa tới dự đám tang.
Ngày tang lễ, ngoài hai Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có hai Quận trưởng của Brive la GaillardeChabrignac. 

No comments:

Post a Comment