Nam Phương
From
Wikipedia, the free encyclopedia
Empress
of Vietnam
|
|||
Nam
Phương on her wedding day, 1934
|
|||
Born
|
14
December 1914
Gò Công, Cochin-China |
||
Died
|
16
September 1963 (aged 48)
Chabrignac, Corrèze, France |
||
Burial
|
Chabrignac, Corrèze, France
|
||
Spouse
|
|||
Issue
|
Crown
Prince Bảo Long
Princess Phương Mai Princess Phương Liên Princess Phương Dung Prince Bảo Thắng |
||
|
|||
Father
|
Nguyễn
Hữu-Hào
|
||
Mother
|
Lê
Thị Binh
|
Empress
Nam Phương (14 December 1914 – 16 September 1963), born Marie-Thérèse
Nguyễn Hữu Thị Lan, baptised Marie-Thérèse later Imperial Princess Nam
Phương, was the first and primary wife of Bảo Đại, the last emperor of Vietnam, from 1934 until her death. She was
also the second and last empress consort
(hoàng hậu) of the Nguyễn Dynasty.
Background
Marie-Thérèse
Nguyễn Hữu Thị Lan was born in Gò Công, a Mekong Delta town in what was then the
French colony of Cochinchina, one of
the three areas (the others being the protectorates of Annam
and Tonkin) that composed the Union of
French Indochina.[1][2]
Her
father, Pierre Nguyễn Hữu-Hào, described as a wealthy merchant,[3] had been born into a poor Roman Catholic family in Gò Công.[4] Through an introduction from the
Archbishop of Saigon, he became secretary to the billionaire Lê Phát Đạt, Duke
of Long-My, and eventually married his employer's daughter, Marie Lê Thị Binh,
and inherited his title.[4][5]
A
naturalized French citizen, Nguyễn Hữu Thị Lan, who was known as Mariette,
studied at the Couvent des Oiseaux, an aristocratic Catholic school located in Neuilly-sur-Seine, France, where she was
sent at the age of 12.
She
was a distant cousin of her future husband, the emperor.[6]
Marriage
On
9 March 1934, the public announcement of the engagement of Nguyễn Hữu Thị Lan
and Bảo Đại, King of Annam,
was released. (In the 19th century, the occupying French forces had diminished
the rank of the country's emperor to king, a situation that was not reversed
until 1945.)[7] In it, Bảo Đại stated, "The
future Queen, reared like us in France, combines in her person the graces of
the West and the charms of the East. We who have had the occasion to meet her
believe that she is worthy to be our companion and our equal. We are certain by
her conduct and example that she fully merits the title of First Woman of the
Empire."[3]
After
a formal betrothal ceremony in the imperial summer palace in Da Lat,[8] the king married Nguyễn Hữu Thị
Lan on 20 March 1934, in Huế. The ceremony was
Buddhist, though the ruler's Catholic fiancée caused some controversy; the
country's population was not entirely in favor of the bride's religious
affiliation.[9] Others suspected that the
marriage "smelled high of French chicanery."[10] The New York Times
reported that "discontent was general" in the country, given that
Nguyễn Hữu Thị Lan had declined to renounce Catholicism and was appealing to Pope Pius XI for a dispensation.[11] Another article noted that there
was much discussion over a report that the pope might allow the bride to
"remain a Catholic if she gave the Church her girl children."[10] Further complicating the wedding
plans was the apparent disapproval of the young monarch's mother, Doan Huy, and
his late father's secondary wives, all of whom had other bridal candidates that
Bảo Đại apparently did not consider.[12]
At
the state ceremony that marked the end of the four-day wedding festivities,
Nguyễn Hữu Thị Lan was given the title 'Imperial Princess' and the name Nam
Phương, which can be roughly translated as 'Fragrance of the South', in
acknowledgment of her place of birth.
Time on 2 April 1934
closely followed the traditional royal nuptials:
"Little
Mariette Nguyen Huu Hao was beautifully married. It took four days. On her way
up Annam's great mandarin road along the coast she stopped off to climb a
mountain and drink of the "frozen spring." Outside Huê, a cavalcade
of palace mandarins on short native Phu-Yen horses met her in the Valley of
Clouds and escorted her through the three walls of the Red City into the Palace
of Passengers. Next day, dressed in a great brocaded Annamite gown, she stepped
into an automobile and was driven to the Emperor's Palace, followed by the
Imperial princesses and the blue-turbaned wives of the mandarins. Two scrolls,
on which were written a prayer to Bảo Đại's ancestors and the name and age (18)
of Nguyen Huu Hao, were burnt on the altars. Finally the two young people were
brought face to face and married. It took three more days of Buddhist rites
behind the locked gates of the Red City to complete the ceremony. On the fourth
day a battalion of mandarins led in musicians and the bearers of the royal insignia.
The new Queen, her hair elaborately wound about a tiara encrusted with precious
stones, received the Imperial seal and the golden book. Finally she arose and
bowed her forehead to the floor three times, in the traditional Chinese kowtow
(pronounced ker-toe) of thanks."[10]
At
the time of her marriage, a song was written in her honor:[10] "In the firmament of the
Son of Heaven a brilliant new star has risen!/Supple as the neck of the swan is
the charm of her graceful form./Her black and sparkling eyes, in hours of ease,
envelop and thrill that happy mortal allowed to see./O, Nguyễn Hữu-Hào!
Beautiful are all thy ways."
Children
The
emperor and empress had five children, most of whom were educated at the French
boarding school their mother had attended, Convent des Oiseaux:[1]
Princess
Phương Mai born on 1 August 1937 (married
Don Pietro
Badoglio, 2nd Duke of Addis Abeba and Marquis of Sabotino).
Princess
Phương Liên born
on 3 November 1938 (married Bernard Maurice Soulain).
Princess
Phương
Dung born on 5 February 1942.
Prince
Bảo Thắng born on
30 September 1943.
Created
empress
Nam
Phuong stamp, published in 1950s
On
18 June 1945, Nam Phương was raised in rank from Her Majesty to Her
Imperial Majesty. She also was granted the title of empress, her husband
having assumed the title of emperor after proclaiming the country's
independence from France, as he had been urged to do as a member of Japan's Greater
East Asia Co-Prosperity Sphere. At this time, Tonkin, Cochinchina,
and Annam, which came under the control of Imperial Japan after World War II, were
reunited to become the Empire of Vietnam,
a puppet state. However, the new emperor was
soon convinced to abdicate the throne by the revolutionary leader Hồ Chí Minh, head of the Việt Minh. The former emperor returned to Vietnam in 1949 at the invitation of the
civilian government and was named head of state, but he went into exile again
in 1954.
Influence
on fashion
Nam
Phương's first official visit to Europe, in the summer of
1939, launched a craze for what one reporter described as "trousers and
embroidered tunics for evenings; pagoda silhouettes, [and] revers or sleeve
forms."[14] To the surprise of fashion
observers, when she met with Pope Pius XII during that trip, "the
visitor from Indochina did not wear the traditional black, long-sleeved gown
and veil. Instead, she appeared in a gold, dragon-embroidered tunic, red scarf,
and gold hat. She wore silver trousers."[15]
Later
life
Nam
Phương served as a member of the Reconstruction Committee for Vietnam after the
end of World War II and was the patron of the
Vietnamese Red Cross.
In
1947, after the Communist takeover of
the country, the empress and her children moved to Château Thorens, outside of Cannes, France, which had been in the
family since its purchase by her maternal grandfather in the early 20th
century.[4] She separated from her husband in
1955. Two years later, when the Vietnamese government announced its
confiscation of the imperial family's personal property, the bill specifically
excluded any real estate owned by the empress prior to 1949.[16] These properties included her
father's villa at Da Lat, which is now Lam Dong Museum.[2][3]
Death
Empress
Nam Phương died on 16 September 1963 from a heart attack, at Domaine de La
Perche, her home near the small rural village of Chabrignac, Corrèze, France.[17] She was buried in the local
cemetery.[18]
Portrayal
on film
The
empress was portrayed by the actress Yen Chi
in the 2004 Vietnamese miniseries "Ngọn
nến Hoàng cung" ("The Imperial Palace's Candlelight").[4]
Titles
and styles
Marie-Thérèse
Nguyễn Hữu Thị Lan (1914–1934)
Her
Majesty
Nam Phương, Imperial Princess of Annam (1934–1945)
Her
Imperial Majesty
Nam Phương, Empress of Vietnam (1945–1963)
Nam Phương
(hoàng hậu)
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
Nam Phương
Hoàng Hậu
南芳皇后 |
||
Nam Phương hoàng hậu
trong triều phục, 1934.
|
||
Tại vị
|
20
tháng 3 năm 1934
– 25
tháng 8 năm 1945
(11 năm, 158 ngày) |
|
Tấn phong
|
21
tháng 3 năm 1934
|
|
Tiền nhiệm
|
||
Kế nhiệm
|
Không có
Chế độ phong kiến sụp đổ |
|
Thông tin chung
|
||
Phu quân
|
||
Hậu duệ
|
|
|
Tên đầy đủ
|
Jeanne Mariette Nguyễn Hữu
Thị Lan
|
|
Hoàng tộc
|
||
Thân phụ
|
||
Thân mẫu
|
||
Sinh
|
||
Mất
|
||
An táng
|
||
Tôn giáo
|
Nam Phương hoàng hậu (chữ
Hán: 南芳皇后; 14
tháng 12 năm 1914
- 16
tháng 9 năm 1963)
là hoàng hậu của hoàng
đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.[1]
Bà cùng với Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, chính thất của Gia Long, là
2 vị Hoàng hậu trong hoàng tộc nhà Nguyễn mang tước vị Hoàng
hậu (皇后) khi
còn sống. Bà cũng là hoàng
hậu cuối cùng của triều đại nhà
Nguyễn và chế độ Quân chủ Việt Nam. Bà đã có công đề xướng việc
thành lập và mở các trường thuộc dòng Đức Bà (Congrégation Notre-Dame) tại Việt
Nam vào năm 1935.
Thân thế
Jeanne Mariette Nguyễn Hữu
Hào có tên thánh là Marie-Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan sinh ra tại Gò Công (nay thuộc thị xã Gò Công,
tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình Công
giáo giàu có bậc nhất miền Nam thời bấy giờ. Cô là con gái của ông Nguyễn Hữu Hào và bà Lê Thị Bình (bà Bình lại là con
gái của Lê Phát Đạt, tục gọi là Huyện Sỹ) ở Nam Kỳ,
một trong bốn người giàu nhất nước Việt Nam những năm đầu của thế kỷ 20.[2]
Vợ chồng ông Pierre Nguyễn
Hữu Hào chỉ sinh được hai con gái. Người con gái đầu là Marie-Agnès Nguyễn Hữu
Hào sinh năm 1903;
con gái thứ hai là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào, nhưng sau này ghi trong giấy khai sinh quốc tịch Việt Nam là Nguyễn Hữu Thị
Lan, còn tên theo Pháp tịch phải ghi thêm là Jeanne Mariette Thérèse. Năm 1928,
khi 25 tuổi, cô chị gái Agnès kết hôn với bá
tước Pierre Jules François Didelot[3]
(người này sinh ngày 7 tháng 8 năm 1898 tại Saint-Rémy en Bouzemont,
51 Marne, Grand
Est, Pháp).[4]
Hai người sinh được một con gái là Marie-Agnes Elisabeth Didelot vào năm 1930.[5]
Cuộc sống của hai chị em cứ
khách quan mà nói là sung sướng, đầy đủ, được cưng chiều. Họ đã sống tuổi thanh
xuân êm đềm và mơ mộng, và có lẽ đó là giai đoạn hạnh phúc nhất đời của người
thiếu nữ sau này làm hoàng hậu. Theo những bức hình chụp trong tờ Indochine
thì cả hai chị em đều cao lớn hơn hẳn những người phụ nữ Việt Nam bình thường.
Hai chị em đến ở trong căn nhà của gia đình tại Sài Gòn để đi học chứ không ở quê hương Gò Công.
Các tiểu thư ở đường Nguyễn Du, mỗi sáng đi nhà
thờ thì băng qua đường Lê Văn Duyệt, tới đường Bùi Thị Xuân chừng nửa cây số
là tới nhà thờ Chợ Đũi. Nhà thờ này do ông Huyện Sỹ - Lê
Phát Đạt (ông ngoại Nam Phương) hiến nhiều tiền của để xây dựng nên về sau gọi
là Nhà thờ Huyện Sỹ.[6].
Năm 12 tuổi, Marie Thérèse
Nguyễn Hữu Thị Lan được gửi sang Pháp theo học tại
trường nữ sinh danh tiếng Couvent des Oiseaux, Paris. Tháng
9 năm 1932, sau
khi thi đậu tú tài toàn phần (tương đương với tốt nghiệp trung học),
Nguyễn Hữu Thị Lan về nước trên con tàu D’Artagnan của hãng Messagerie
Maritime. Vua Bảo Đại hồi loan cũng đi cùng chuyến tàu đó nhưng hai người
không gặp nhau[7].
Theo cụ Phạm Khắc Hoè, cựu Đổng lý Ngự tiền Văn phòng của Bảo
Đại, năm 1983 đã viết trong hồi ký Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc,
trong đó cũng có đoạn nói về cuộc hôn nhân của Bảo Đại:
“… Trong cuộc kết hôn
giữa Bảo Đại với Nguyễn Hữu Thị Lan lý trí nặng hơn tình cảm nhiều. Cô Lan lấy
Bảo Đại chủ yếu là để lên ngôi Hoàng hậu. Bảo Đại lấy cô Lan chủ yếu là để đào
mỏ. Về mặt tình cảm nếu có thì cũng chỉ là bề ngoài: hai người đều khoẻ mạnh,
yêu thể thao và quen sống lối phương Tây. Còn về tính tình, tâm tư thì hầu như
trái ngược nhau. Bảo Đại nông cạn, ngây thơ, nhu nhược, thích ăn chơi hơn là
quyền bính. Ông ta có thể phục thiện nhưng rất dễ bị bọn cơ hội lợi dụng. Trái
lại, Nam Phương là người kín đáo, trầm tĩnh, sâu sắc, có cá tính, có đầu óc suy
nghĩ, thích đọc sách, nghiên cứu hơn là ăn chơi … thích uy quyền và có nhiều
tham vọng chính trị”.
Tham vọng của Nam Phương
là khi có con trai sẽ phong làm Thái tử để nối ngôi và quyền bính sẽ do bà Thái
hậu Nam Phương nắm giữ. Sau này, có người hỏi bà Nam Phương tại sao bà lại lấy
một ông vua không có đạo, lại ăn chơi trác táng, rồi sau đó còn năm thê bảy thiếp,
không kém gì những ông vua tiên đế. Bà Nam Phương trả lời là: "Việc này
do Chúa định, tôi biết nói làm sao được".
Hôn sự
Nam Phương hoàng hậu trong
triều phục, 1934.
Về Việt Nam được gần một
năm, khi vua Bảo Đại lên nghỉ mát tại Đà
Lạt, và được sự dàn xếp của vị Toàn Quyền Pháp Pasquier và viên Đốc lý Darles (Thị
Trưởng) Đà Lạt, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace tại Đà
Lạt do Toàn quyền Đông Dương và viên Đốc lý[8]
thành phố sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.
Về cuộc tình duyên đó, Bảo
Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt Nam:
"Sau lần hội ngộ đầu
tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie
Thérèse thường nhắc đến những kỉ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách
thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ
đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt
danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền
Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền
Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ,
hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng
đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự
ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam".
Hoàng hậu Nam Phương cũng
nhắc lại:
"Hôm đó ông Darle,
Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi [9]
và tôi đến dự dạ tiệc ở Hôtel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ
và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên
tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài và chỉ mặc
cái áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt
đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông
ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông
vừa nói: "Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được". Khi cánh
cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa
nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
-Votre Majesté,
Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng,
đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)
Nhờ các nữ tu ở trường
Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối
với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một
gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi mới
đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu
Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện.
Về sau, khi đã trở
thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn
sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ
tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ
đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài".
Bảo Đại say mê Nguyễn Hữu
Thị Lan, ông viết lại: Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam,
hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê. Và khi Bảo Đại hỏi cưới thì gia đình
Nguyễn Hữu Thị Lan ra điều kiện:
Nguyễn Hữu Thị Lan phải được
tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay trong ngày cưới.
Được giữ nguyên đạo Công
giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội
theo giáo luật Công giáo và giữ đạo.
Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ
đạo cũ là Phật giáo.
Vì vậy cuộc hôn nhân giữa
Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối. Trước Hoàng Tộc Triều
Nguyễn, Bảo Đại đã nói: "Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân [11]
và Triều đình."
Hoàng hậu Nam Phương trên
một con tem Đông Dương thuộc Pháp, sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sử dụng lại.
Nam Phương Hoàng hậu
Hôn lễ được tổ chức ngày 20
tháng 3 1934 ở Huế. Khi đó Bảo
Đại hoàng đế đúng 21 tuổi, còn Nguyễn Hữu Thị Lan 20 tuổi. Ngay ngày hôm sau, lễ
tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm. Hoàng đế
phong Hoàng Hậu tước vị Nam Phương Hoàng Hậu.
Sự kiện Nguyễn Hữu Thị Lan
được tấn phong Hoàng hậu ngay sau khi cưới là một biệt lệ đối với các chính
cung trong triều Nguyễn. Vì mười hai đời Tiên Đế nhà Nguyễn trước, các bà chánh
cung chỉ được phong tước Hoàng quý phi, đến khi chết mới được truy phong Hoàng
hậu.
Hoàng hậu Nam Phương trên
một con tem Quốc gia Việt Nam.
Bảo Đại có giải thích thêm
về hai chữ Nam Phương như sau: "Tôi đã chọn tên trị vì cho bà Hoàng Hậu
mới là Nam Phương. Nam Phương có nghĩa là hương thơm của miền Nam (Parfume du
Sud) và tôi cũng ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục sức màu vàng –
màu dành riêng cho Hoàng Đế".
Nguyễn Hữu Thị Lan mang quốc
tịch Pháp và theo
đạo Công giáo. Khi cựu Khâm sứ Trung kỳ là ông bà Charles viết
thư xin phép Toà Thánh cho Nam Phương được kết hôn với Bảo Đại và mỗi người giữ
đạo riêng. Nhưng Giáo hoàng Piô XI đã không chấp nhận. Việc đã lỡ
rồi, nên đám cưới của Bảo Đại với Thị Lan vẫn cứ tiến hành. Vì vậy Giáo hoàng
đã rút phép thông công không cho Nam Phương xưng tội và rước
lễ như trước khi lấy Bảo Đại. Sau khi kết hôn, Bảo Đại nghe theo lời của vợ chồng
Charles là nên tặng huy chương cho mấy Giám mục người Pháp, người Ý và Khâm sứ
Toà thánh ở Huế để lấy lòng Toà Thánh thì tương lai sẽ được Toà thành tha phạt
vạ bà Nam Phương. Giáo hoàng Piô XI qua đời ngày 10-2-1939, và ngày
12-3-1939 Giáo hoàng Piô XII lên kế vị nên đã xét lại và
chấp nhận cho Bảo Đại cứ giữ đạo Phật, còn Nam Phương cứ giữ đạo Công
giáo, nhưng các con khi sanh ra phải được rửa tội để nhập đạo Công giáo
theo người mẹ là bà Nam Phương. Vì thế, sau đó hai vợ chồng Bảo Đại và Nam
Phương đã sang ngay La Mã xin yết kiến để cảm ơn Giáo hoàng Piô XII.
Sau lễ cưới, Bảo Đại hoàng
đế cùng Nam Phương hoàng hậu dọn về ở tại điện Kiến Trung thuộc khu vực cấm thành. Điện này xây cất từ
thời Khải Định Khải Định hoàng đế, nhưng đã được sửa chữa và
tân trang các tiện nghi Tây phương vào đầu triều Bảo Đại.
Đêm ngày 4 tháng 1
năm 1936, người dân
Huế nghe những tiếng súng bắn mừng báo tin Nam Phương hoàng hậu đã hạ sinh, và
lờ mờ sáng lại một lần nữa 7 tiếng súng thần công làm lay động cả Hoàng Thành,
báo hiệu Hoàng hậu đã sinh một Hoàng
tử[12].
Người đó chính là Đông cung Thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long.
Nam Phương hoàng hậu cùng
Bảo Đại hoàng đế có tất cả năm người con:
Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, tước phong Hoàng thái tử.
Phương Mai công chúa, sinh ngày 1 tháng 8
năm 1937.
Phương Liên công chúa, sinh ngày 3 tháng 11
năm 1938.
Phương Dung công chúa, sinh ngày 5 tháng 2
năm 1942.
Nguyễn Phúc Bảo Thắng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943, Nhị hoàng tử.
Khi đó công việc hàng ngày
của Hoàng hậu là dạy dỗ các hoàng tử, công chúa. Thỉnh thoảng bà phải cùng các
quan ở Bộ Lễ bàn thảo các lễ tiệc trong cung đình, lo việc cúng giỗ
các Tiên đế và đi vấn an sức khỏe các bà Tiên cung và Từ Cung Hoàng thái hậu, tức mẹ của Bảo Đại Đế.
Hoàng hậu còn tham gia các việc xã hội và từ thiện. Hàng năm bà đều tham dự các
buổi phát giải thưởng cho các học sinh giỏi tổ chức tại trung tâm Accueil gần
nhà Dòng Chúa Cứu Thế. Theo lời nữ sĩ Đạm Phương thì có lần Hoàng hậu bảo bà làm đơn xin phép
Bộ Giáo dục đem môn nữ công gia chánh vào học đường.
Hoàng hậu cũng xuất hiện
thường xuyên bên cạnh Bảo Đại hoàng đế trong các nghi lễ ngoại giao như đón tiếp
Thống chế Tưởng Giới Thạch của Đài
Loan, Quốc Vương Soupha Vangvong nước Lào hoặc Quốc vương
Sihanouk của Cao Miên...
Lần Bảo Đại Đế tự mình lái xe hơi đi thăm Nam
Vang cũng có mặt Hoàng hậu tháp tùng. Là người Công giáo, hoàng hậu đã đem
lại hòa khí giữa các chức sắc đạo Công giáo ở Việt Nam với Hoàng tộc nhà Nguyễn,
vốn trước đó có những quan hệ căng thẳng kéo dài.
Trở về cuộc sống thường
dân
Sau tháng Tám 1945, ngày 25
tháng 8, Hồ Chí Minh điện cho Bảo
Đại yêu cầu ông ban dụ thoái vị. Ngày 30
tháng 8 1945, Bảo
Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, Huế, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm
bạc nạm ngọc cho ông Trần Huy Liệu. Tháng 9 năm 1945, ông ra nhận chức
"Cố vấn tối cao" trong chính phủ. Ngày 16
tháng 3 1946,
ông tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang thăm viếng Trung Hoa, nhưng không trở về nước. Sau ngày
toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 1946, thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Huế. Hoàng hậu
Nam Phương rời khỏi thành nội ra sống ngay tại khách sạn Morin, lúc này đây
khách sạn duy nhất trong kinh đô Huế để chờ đợi thời cơ sang Pháp, cũng như
tránh khỏi cuộc chiến chính trị trong Thành Nội. Ngày 1 tháng 1
1947 Nam Phương
hoàng hậu cùng các con sang Pháp.
Tuy vậy, Nam Phương hoàng
hậu được nhiều người đánh giá là người thiết tha với đất nước. Theo tài liệu của
sử gia Pháp Jean Renaud do nhà xuất bản Guy Boussac ấn hành năm 1949:
Sau khi quân Pháp dựa
vào thế lực của quân Anh
quốc để gây hấn ở miền Nam với ý đồ tái chiếm thuộc địa Việt Nam. Lúc đó vua Bảo
Đại đã thoái vị, bà Nam Phương đang ở tại An Định cung bên bờ sông An Cựu.
Đau lòng trước thảm cảnh mà đồng bào miền Nam, quê hương của bà đang trực tiếp
gánh chịu, cựu Hoàng hậu Nam Phương đã gửi một thông điệp cho bạn bè ở Á châu
yêu cầu họ lên tiếng tố cáo hành động xâm lăng của thực dân Pháp với lời lẽ như
sau:
"Kể từ tháng 3 năm
1945, nước Việt Nam
đã thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp nhưng vì lòng tham của một thiểu số thực
dân Pháp với sự tiếp tay của quân đội Hoàng gia Anh nên hiện nay máu của nhân
dân Việt Nam lại tiếp tục chảy trên mảnh đất vốn đã có quá nhiều đau khổ. Hành
động này của thực dân Pháp là trái với chủ trương của Đồng Minh mà nước
Pháp lại là một thành viên. Vậy tôi tha thiết yêu cầu những ai đã từng đau khổ
vì chiến tranh hãy bày tỏ thái độ và hành động để giúp chúng tôi chấm dứt chiến
tranh đang ngày đêm tàn phá đất nước tôi.
Thay mặt cho hàng chục
triệu phụ nữ Việt Nam, tôi thỉnh cầu tất cả bạn bè của tôi và bạn bè của nước
Việt Nam hãy bênh vực cho tự do. Xin các chính phủ của khối tự do sớm can thiệp
để kiến tạo một nền hòa bình công minh và chân chính và xin quý vị nhận nơi đây
lòng biết ơn sâu xa của tất cả đồng bào của chúng tôi"
Hoàng hậu Nam Phương cũng
là người tiêu biểu trong các bà mệnh phụ nhiệt tình với "Tuần lễ Vàng" do Việt
Minh phát động tại Huế. Hôm ấy, ngày 17
tháng 9 1945,
bà là người đầu tiên đến bên một cái bàn trải khăn đỏ rồi từ từ tháo hết số
hàng trang sức bằng vàng đang mang trên người.
Di cư
Nam Phương Hoàng hậu rời
Việt Nam năm 1947.
Năm 1949, Bảo Đại trở về Việt Nam ngồi ghế “Quốc trưởng”, nhưng bà Nam Phương vẫn
ở bên Pháp. Những ngày nghỉ lễ, bà Nam Phương thường đi phố cùng các con để mua
đồ chơi cho chúng hoặc đi xem chiếu bóng với hoàng tử Bảo Thắng, công chúa
Phương Dung là hai người con nhỏ nhất. Tại Pháp ban đầu bà Nam Phương ở lâu đài
Thorenc tại Cannes. Cũng có những lúc Bảo Đại về Pháp, bà Nam Phương cùng đi với
Bảo Đại tới casino
để xem ông chơi baccarat hoặc roulette cho vui. Những lần có bà cùng đi, nếu được
bạc thì Bảo Đại tặng hết cho bà để sắm sửa quần áo.
Nam Phương Hoàng hậu ưa thời
trang của hãng Christian Dior và Balmin. Bà cũng ăn mặc sành điệu và
màu tím nhạt là màu bà ưa thích nhất. Hàng ngày sinh hoạt của bà là chăm lo cho
các con hay đọc sách báo hoặc ra vườn trồng hoa, tỉa lá. Buổi tối bà thích chơi
dương cầm cho các con nghe.
Trong phòng bà, người ta
thấy treo những bức họa của Renoir, Buffet. Bà không thích tranh lập thể của
Picasso vì tâm hồn không hợp với trường phái hội họa này cũng như siêu thực.
Trong nhà bà có cả một đàn chó, có một con thuộc giống Saint Berard. Về thể thao
bà có thể chơi bóng bàn, quần vợt và golf nhưng không giỏi lắm.
Ngay cả ông Bảo Đại cũng
chưa bao giờ dám trách vợ về việc trai gái, vì kể từ ngày ly thân với Bảo Đại,
bà Nam Phương không có một người nhân tình nào, dù là đi khiêu vũ hay đi tắm biển
với một người đàn ông nào khác.
Sau năm 1955, Bảo Đại để
bà Nam Phương ở nhà một mình với mấy người con khi đó đã lớn, mỗi người đi làm
một nơi. Về sau, bà Nam Phương rời lâu đài Thorenc ở Cannes để về sống ở lâu
đài Domain de la Perche ở Chabrignac, tỉnh Corrèze, vùng Nouvelle-Aquitaine cách Paris chừng bốn năm trăm
cây số.
Ngôi nhà của bà có rừng
bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách. Về đời sống vật chất thì
bà Nam Phương không lúc nào thiếu thốn khi sống ở xứ người. Tài sản riêng do
gia đình Nguyễn Hữu Hào tậu cho bà gồm một chung cư lớn tại Neuilly và ở đại lộ
Opera. Ngoài ra bà còn nhiều nhà đất ở bên xứ Maroc, Congo...
Nhưng những bất động sản
này bà đã chia cho các con mỗi đứa một phần riêng và chỉ giữ lại trang trại ở
Charbrignac, gồm 160 mẫu đất với một đàn bò gần trăm con và một vườn hồng lúc
nào cũng nở hoa. Nhà của bà ở cách biệt với những nhà dân ở vùng này, vì là
làng quê nên mọi người ít có dịp giao thiệp với nhau. Và đã có lần bà Nam
Phương ngỏ ý được trở về Việt Nam để được chết và an tang bên cạnh hai mộ thân
sinh và thân mẫu ở Đà Lạt. Nhưng Bảo Đại và các con của bà phản đối không cho
bà về.
Dân làng Chabrignac kể rằng,
bà Nam Phương giàu có, nhưng sống thiếu hạnh phúc. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu
hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của
công chúa Phương Liên kết hôn với chàng trai người Bordeaux. Buồn nản vì tình cảm
của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới
về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con mới có dịp về
thăm bà.
Những năm sau này bà Nam
Phương ít đi ra ngoài và gặp gỡ ai. Cũng có đôi khi bà Nam Phương đi Paris để
thăm các con đang học và làm ăn ở đó. Và ngược lại những dịp hè thì các con có
về đây thăm mẹ ở ít ngày cho bà đỡ buồn. Thời gian này bà bị bệnh tim nặng làm
khó thở.
Qua đời
Ngày 14 tháng 9 năm 1963,
sau khi ra nắng bị cảm lại đi tắm bà bị sốt cao, bà thấy đau họng. Bác sĩ tới
thăm bệnh, nói bà bị viêm họng nhẹ. Không ngờ sau đó, bà bị khó thở. Ông quản
gia và mấy cô giúp việc vội chạy đi tìm bác sĩ khác ở làng bên, cách mươi cây số.
Nhưng vì bệnh viện ở xa, bác sĩ không tới kịp nên bà đã ra đi vào lúc 5 giờ chiều.[13].
Ngoài hai người giúp việc
trong nhà, không có một người ruột thịt nào có mặt bên cạnh bà trong giờ phút
lâm chung. Khi đó các con bà đang đi học hoặc làm ở Paris, còn Bảo Đại sống
ở miền Nam nước Pháp.
Đám tang của bà Nam Phương
được cử hành theo nghi thức đạo Công giáo rất đơn giản. Đám tang vỏn vẹn chỉ có
các Hoàng tử, Công chúa và một số bạn bè thân thiết của gia đình. Tại địa
phương có vị Tỉnh trưởng và dân biểu địa phương bà Nam Phương cư ngụ tới chia
buồn và dự tang lễ. Đặc biệt có sự tham dự của Công chúa Như Lý, con gái của
vua Hàm Nghi. Công chúa Như Lý cũng ở gần nơi bà Nam Phương cư ngụ, nhưng chưa
bao giờ khi bà Nam Phương còn sống bà Như Lý tới thăm mà duy nhất lần này bà
Nam Phương tạ thế Công chúa tới dự đám tang.
Ngày tang lễ, ngoài hai
Hoàng tử và ba Công chúa đi bên cạnh quan tài của mẹ không có một người bà con
nào khác. Về phía quan chức Pháp thì chỉ có hai Quận trưởng của Brive la Gaillarde và Chabrignac.
No comments:
Post a Comment