Hàn Mặc Tử trong bài
thơ Phan Thiết Phan Thiết, có địa danh Lầu Ông Hoàng, nhà thơ gợi thi hứng tạo nên một huyền thoại nửa hư nửa
thực về mối tình mình với Mộng Cầm . Lầu Ông Hoàng do ai xây
dựng ? Ông Hoàng là ai ? Hàn Mặc Tử làm gì khi đến
Phan Thiết, mối quan hệ Hàn Mặc Tử- Mộng Cầm , tình bạn tri âm tri kỷ với thi sĩ Bích Khê ? Mộng
Cầm là cháu của Bích Khê. Hàn Mặc Tử bệnh phong cùi mất năm 28
tuổi, và Bích Khê bị lao phổi mất 30 tuổi, hai thi sĩ chết khi nửa
đời chưa qua hết, những ngày cuối đời trong đau đớn nghiệt ngã bệnh
tật nhưng để lại những vần thơ tuyệt đẹp và lạ lùng, bao thế hệ sau
còn bàn tán xôn xao. Thơ Điên, thơ Loạn hay thơ những thiên tài, hai vì sao băng lóe sáng trên bầu
trời thi ca Việt Nam rồi chợt tắt.
Tôi sinh ra và sống
suốt tuổi thiếu niên tại Phan Thiết, trước khi lên đường du học tại Âu
Châu. Lầu Ông Hoàng là nơi tôi thường đến chơi cùng bè bạn, dấu chân
tôi đi qua những nền gạch cũ, tầng hầm Lầu Ông Hoàng, bên cạnh tháp
chàm Po Sah Inư, cách nơi đây hơn 50
năm cũng chỉ còn sót lại những khóm bông giấy, cây cảnh mọc chen lẫn
với cây cỏ dại hoang vu. Hai nhà thơ đã qua đời từ lâu. Tôi chỉ còn
gặp bà Mộng Cầm, bà trở thành phu nhân của một nhà hóa học, có
phòng thí nghiệm phân chất đạm nước mắm, tôi thường được gặp bà nơi này. Bây giờ
bà cũng đã thành người thiên cổ nằm bên mộ chồng trong nghĩa trang
Lầu Ông Hoàng. Chỉ còn những bài thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê tôi
thuộc nằm lòng từ tuổi thanh xuân.
PHAN THIẾT PHAN THIẾT
« Nhớ khi xưa ta là chim phượng hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất..
Bay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất,
Và lùa theo không biết mấy là hương..
Lúc đằng vân gặp ánh sáng chận đường,
Chạm tiếng nhạc, va nhầm thơ thiên cổ..
Ta lôi đình thấy trăng sao liền mổ :
Trăng tan tành rơi xuống một cù lao,
Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao
Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ.
Ở ngôi cao, ngước mắt ra ngoài bể
Phong lưu ghê, sang trọng chẳng vừa chi.
Ta mê man như ở chốn Phụng trì,
Ở đây mãi không về Thiên cung nữa.
Như phép lạ ! có một vì tiên nữ
Hao hao như nường nguyệt cõi Đào nguyên,
Ta đắm mê trong ánh sáng trần duyên
Và van lạy xin cô nường kết ngãi,
Mỉa mai thay cho phượng hoàng si dại.
Là ta đây đương ở kiếp muôn chim...
Trở lại Trời tu luyện với muôn đêm,
Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả.
Ta trở nên như ngọc đàng kim mã
Rất hào hoa phong vận : Người Thơ..
Ta là trai khí huyết ước ao mơ
Người thục nữ sinh giữa thời vô thượng.
Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng,
Ta lang thang tìm tới chốn lầu trang :
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang,
Nơi đã khóc đã yêu thương da diết..
Ôi trời ôi ! Là Phan Thiết ! Phan
Thiết !
Mà tang thương còn lại mãnh trăng rơi..
Ta đến nơi - nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa đã chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa
phỉ !
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng
Thơ phép tắc bỗng kêu rêu thống thiết.
Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết !
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư. »
Bài thơ này Hàn Mặc Tử không dùng
các hình ảnh trong Thánh Kinh, chương Khải Huyền, hay ngôn ngữ của
Dante trong Thần Khúc Comédie Divine về cõi Thiên Đường, mà bằng ngôn
ngữ, hình ảnh các quan niệm siêu hình trong Phật Giáo : cõi Trời
Đao Lỵ, cõi Trời Đâu Suất, tu thành chánh quả, kiếp chim phượng
hoàng, sông Hằng, giai nhân như nường nguyệt chốn Đào nguyên, nàng tiên
không bất tử như trong các
chuyện thần tiên mà đã chết từ muôn trăng thế kỷ,
khi phượng hoàng tu thành chánh quả làm kiếp người : Người Thơ. Hàn Mặc Tử đã sáng tạo ra những
ngôn ngữ mới như Phụng Trì, một cõi thiên đường của Hàn Mạc Tử,
trong ngôn ngữ Phật Giáo có chữ trì địa, là nơi đất lành cõi Phật,
thế thì Phụng trì hay Phượng Trì là nơi đất lành chim phượng hoàng
ở. Nguyễn Bá Tín trong sách “Hàn Mạc Tử anh tôi”, cho biết, ông cùng
anh đi xem phim Hồng Kong, thấy cô gái gọi người tình : phụng trì!
phụng trì ! Âm thanh tiếng gọi làm Hàn Mặc Tử thích quá nhắc hoài
đem hai chữ này vào thi ca mình.
Ông
Hoàng là ai mà xây dựng một lầu trang tại Phan Thiết ?
Lầu Ông Hoàng do
Ferdinand d ́Orléans (1884-1924) xây dựng. Ông sinh ngày 9 tháng 9 năm 1884
tại lâu đài Eu, vùng Normandie phía Bắc nước Pháp, và mất ngày 30
tháng giêng năm 1924 tại Puy de Dôme. Cha ông là Philippe d ́ Orléans và mẹ
là Marie Isabelle d ́ Orléans. Ông là con thứ có hai anh là Philippe d ́
Orléans và Louis d ́ Orléans. Tại nhiều lâu đài vùng sông Loire còn
nhiều tranh chân dung vẽ gia đình ông. Ông cố là vua Louis-Philippe Đệ
Nhất. Ông nội là Antoine d ́ Orléans (1824-1890) con thứ nhà vua, cùng
mang tước Duc de Montpensier, người đầu tiên dòng Capétienne d ́Orléans,
lập nên nhánh Orléans-Bourbon còn gọi là Orléans-Gallera, được vua cha
xem là người có tài năng và bản lĩnh mạnh mẽ nhất trong các con nhà
vua. Ông được Adélaide d ́ Orléans em vua Louis-Philippe Đệ Nhất để lại
cho gia tài trở thành chủ nhân điện Matignon năm 1822-1848, là dinh Thủ Tướng nước
Pháp ngày nay. Ông là người giàu có, có nhiều dinh thự tại Pháp và
Tây Ban Nha. Do đó cháu nội ông Ferdinand d ́ Orléans được thừa hưởng
nhiều gia tài.
Năm 1911, Công tước
De Montpensier, Ferdinand d ́ Orléans đi du lịch và săn bắn sang Đông Dương ông dừng chân
tại Phan Thiết, thích thú trước ngọn đồi, ông mua lại mảnh đất rộng
536 m vuông cạnh Tháp Chàm Po Sah Inư 100m về hướng nam. Ông bỏ ra 82
ngàn đồng Đông Dương, món
tiền khá lớn thời bấy giờ, để xây dựng một lầu
trang khởi công ngày 21-2-1911 và hoàn thành 13 phòng rộng nhiều tiện
nghi, có máy phát điện riêng dưới tầng hầm, và bể chứa nước mưa
dùng cho cả năm. Hàn Mặc Tử gọi đây là lầu trang đúng ý nghĩa, vì
đây không phải là lâu đài như các lâu đài nước Pháp, hàng chục hàng
trăm phòng, nhưng lớn hơn một biệt thự, dã thự.
Đồi cao 105 m cách
mặt nước biển, cách trung tâm Phan Thiết 7km, đồi xưa người Chăm gọi
là đồi Bài Nài, người Việt đổi tên thành Phố Hải rồi Phú Hài, đồi
còn gọi tên là đồi Ngọc Lâm.
Bình Thuận là nơi
mưa thuận gió hòa, có ruộng đất rộng rãi phì nhiêu hơn các tỉnh
khác miền Trung, nơi qui tụ dòng hải lưu nên thường được mùa cá, ăn
không hết cá phơi khô, làm nước mắm. Nước mắm Phan Thiết sản xuất
nhiều hơn cả các vùng khác, thời Pháp thuộc và thời VNCH nước mắm
Phan Thiết bán đi khắp các miền đất nước, ghe bầu Phan Thiết đến các
chuyến xe lửa, xe hàng chở nước mắm đi khắp nơi.
Bình Thuận là vùng đất An Nam, còn thuộc triều
đình Huế, sau khi Nam Kỳ Lục Tỉnh trở thành thuộc địa trực trị. Phan
Thiết trở thành nơi tị nạn các nho sĩ Nam Kỳ.
Trên
đồi Lầu Ông Hoàng còn có khu mộ hai danh nhân Phan Thiết thời vua Tự
Đức. là cụ Nguyễn Thông và cụ Trần Thiện Chánh. Cụ Nguyễn Thông làm
Doanh Điền Sứ Bình Thuận, chỉ huy đoàn thám hiểm vùng cao nguyên phía
trên Bình Thuận và dòng sông La Ngà từ Bà Rịa, Bình Thuận ra đến
Bình Định, tìm đất khẩn hoang lập làng xóm khai khẩn ruộng nương. Ông
lập Ngọa Du Sào đời con ông là Nguyễn Trọng Lợi (1879-1911), Nguyễn
Quý Anh (1881-1938) cùng các ông Nguyễn Hiệt Chi, Trần Đình Phiên, Trần Lệ Chất, Hồ
Tá Bang (1875-1943). Ngô Văn Nhượng. lập nên Dục Thanh Học Hiệu, Liên
Thành Thương Quán, Liên Thành Thi Xã.. Đây là nơi tiếp đón các
cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng sau vụ Trường Thi
Bình Định phát tán các bài Chí
thành thông thánh, Lương sơn minh ngọc, họ về Phan Thiết cùng Nguyễn Quý
Anh, nơi đây họ diễn thuyết cổ động : Khai dân trí, Chấn dân khí
và Chấn hưng công thương nghiệp.
Trần Thiện Chánh Tri Phủ Hàm Thuận,
người từng bán cả gia tài để mộ
5000 quân chống Pháp đánh trận 18 thôn Vườn Trầu Sài Gòn, ông
từng làm đến chức Phó Đô Đỏc Thủy Quân. Khi Pháp chiếm Nam Kỳ Nguyễn
Thông cùng Trần Thiện Chánh ra Phan Thiết lập Đồng Châu Xã. Trần
Thiện Chánh là ông cố của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh người sáng tác
bản Hàn Mặc Tử : « Đường lên dốc đá lối xưa hai người đã
một lần đến, Lầu Ông Hoàng đó lối xưa chân Hàn Mặc Tử đã đi
qua.. »
Nguyễn Thông và
Trần Thiện Chánh còn là những nhà thơ chữ Hán danh tiếng.
Lầu Ông Hoàng ngôi lầu trang hai tầng đầu tiên của
thành phố Phan Thiết, phía trước có phòng vào hình vòng cung chung quanh có vườn hàng hiên trồng
nhiều bông giấy. Khoảng năm 1974 tôi có tìm ra tại Pháp bức ảnh biệt
thự Lầu Ông Hoàng, tôi gửi về cho nhà văn Lê Hương để anh viết bài,
nhưng tiếc rằng anh bị tai nạn xe gắn máy và mất sau đó, tôi lại
không chụp lại bản sao hình ngôi biệt thự thật đáng tiếc.
Có chuyện kể rằng
Duc de Montpensier khi về Pháp để lại lâu đài cho một tình nhân, bà
này ngoại tình và bị bắn chết tại Sài Gòn, nguyên nhân không biết
thực hư thế nào, có người cho rằng ông ghen tuông mướn người ám sát, nhưng
Duc de Montpensier không hề bị buộc tội. Do đó mà Hàn Mặc Tử viết hai
câu : « Lầu Ông Hoàng người thiên hạ đồn vang, Nơi đã khóc
một yêu thương da diết.. »
Tháng 7 năm 1917 biệt thự được bán cho một chủ khách sạn
người Pháp tên Prasette, ông này xây dựng khách sạn Ngọc Lâm bên cạnh
và về sau Lầu Ông Hoàng được vua Bảo Đại mua lại.
Năm 1947, Pháp cho
xây dựng nhiều đồn bót để canh gát. Lầu Ông Hoàng diễn ra nhiều trận
đánh ác liệt, toàn bộ biệt thự, khách sạn khu Lầu Ông Hoàng bị phá
hủy chỉ còn nền gạch. Ngôi tháp còn lại ngày nay chỉ là một lầu
canh mới xây dựng.
HÀN MẶC TỬ (1912-1940)
Hàn
Mặc Tử cùng Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời
gọi là “Bàn Thành tứ hữu”, bốn người bạn thành Đồ Bàn, họ tự gọi
là Trường Thơ Loạn.
Gốc họ Phạm ở Thanh Hóa, ông cố là
Phạm Chương vì liên quan quốc sự bị truy nã, Người con trai là Phạm
Bồi đến Thừa Thiên, Huế đổi theo họ mẹ là họ Nguyễn. Sinh ông Nguyễn
Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy con danh y Nguyễn Long, ngự y đời
Tự Đức sinh hạ 8 người con mang tên Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Hiếu,
Hiền, Thảo.
Anh cả
Nguyễn Bá Nhân (nhà thơ Mộng Châu) người dìu dắt Hàn Mặc Tử
trên đường thơ văn.
Hàn Mặc Tử là người thứ tư, tên
thật là Nguyễn Trọng Trí. Em kế là Nguyễn Bá Tín người cải táng
Hàn Mặc Tử từ Quy Hoà ra Ghềnh Ráng ngày 13-2-1959 và viết quyển
Hàn Mặc Tử anh tôi.
Sinh làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng
Bình. Cha làm Chủ sự Thương Chánh. Nhật Lệ, Hàn Mặc Tử theo cha đi
học tại nhiều nơi.
1920 Học Tiểu học tại Sa Kỳ.
1921-1923 học tại Quy Nhơn, Bồng Sơn.
1924 học tại Sa Kỳ.
1926 sau khi cụ thân sinh mất, được mẹ
cho đi học trường Pellerin Huế.
Gia đình theo đạo Công Giáo và ông
được rửa tội tại nhà thờ Tam Tòa, tên thánh là Phêrô Phanxico.
Làm thơ từ năm 16 tuổi lấy hiệu Phong
Trần và Lệ Thanh.
Năm 1936.
21 tuổi ông làm Sở Đạc Điền tại Sài Gòn, ông còn làm phóng
viên báo Công Luận và phụ trách tờ phụ trương Trong Khuê Phòng, Ông
đổi bút hiệu là Hàn Mạc Tử là chàng trai sau bức rèm lạnh lẽo.
Bạn bè thân bảo ông vẽ thêm mặt trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo
để lột tả con người trước thiên nhiên. Từ đó Hàn Mạc Tử thành Hàn
Mặc Tử là chàng trai của bút nghiên. Mộng Cầm ở Phan Thiết thường
gửi thơ đăng báo, hai người bắt đầu trao đổi thư từ.
Sáng tác Hàn Mặc Tử gồm có”
- Lệ Thanh thi tập. Thơ Đường Luật.
- Gái Quê. 1936
- Thơ Điên hay Đau Thương gồm ba tập
Hương Thơm, Mật Đắng, Máu Cuồng và Hồn Điên. 1938
- Xuân Như Ý
-Thượng Thanh Khí
- Cẩm Châu Duyên
- Duyên Kỳ Ngộ kịch thơ 1939
- Quần Tiên Hội Kịch thơ viết dang dỡ
1940
- Chơi Giữa Mùa Trăng. Thơ văn xuôi.
Ngoài ra còn có một số bài phóng
sự, tạp văn, văn tế..
Trong thơ Hàn Mặc Tử có nhắc
đến các người thơ: Kim Cúc, Mộng Cầm, Ngọc Sương, Thương Thương và Mai
Đình nhưng sự thật chỉ có Mộng Cầm là tình yêu thực sự được đáp
lời. Hai người có thư từ cho nhau, hứa hẹn, cùng đi chơi với nhau,
Mộng Cầm có xin để tang cho người anh Hàn Mặc Tử mất. Nhưng ngày xưa
lễ giáo nho phong rất nặng, nề nếp tình yêu không vượt ra tầm lễ
giáo.
Còn những hình bóng giai nhân khác.
Bài Đây Thôn Vỹ Dạ nhắc đến “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, người
Hàn Mặc Tử thầm yêu trộm nhớ khi học ở Huế là Hoàng Cúc, Hoàng
thị Kim Cúc về sau trở thành một nhà hoạt động nổi tiếng trong phong
trào Phật Giáo miền Trung và tổ chức Gia Đình Phật Tử. Hoàng thị
Kim Cúc có viết sách dạy nấu các món ăn chay. Tình yêu Hàn Mặc Tử
không được đáp lại có lẽ vì lý do tôn giáo hai gia đình.
Khi
Hàn Mặc Tử khổ sở vì bệnh và tình. Bích Khê ra thăm tặng chàng bức
ảnh Bích Khê chụp chung với chị Ngọc Sương và giới thiệu chị chàng
cũng hiểu văn chương và thích thơ Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử viết bài
Người Ngọc :
Ta
đề chữ Ngọc trên đầu lệ,
Sương
ở cung thềm gió chẳng thôi.
Tình
ta khuấy mãi không thành khối,
Nư
giận đòi phen phải cắn môi.
Khi
biết chuyện ấy Ngọc Sương đã yêu cầu em chấm dứt cái trò mai mối
ấy.
Trường hợp Thương Thương có nhắc trong
thơ Hàn Mặc Tử cũng thế, một người bạn lấy tên Thương Thương đứa
cháu, để làm hình ảnh an ủi bạn.
Ngày
11-11-1940 Bích Khê như người mất hồn vì sự ra đi của Hàn Mặc Tử.
Trường thơ Loạn cùng Chế Lan Viên, Yến Lan cũng tan rã sau khi Bích Khê
qua đời năm 1946. Chế Lan Viên tự đổi mới bỏ đi những ngôn ngữ lưu
luyến dân Hời của Điêu Tàn. Yến Lan tiếp tục con đường Loạn bị tơi
bời trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cả Văn Cao giới thiệu thơ Yến Lan cũng
chịu chung số phận.
BÍCH
KHÊ (1916-1946)
Bích
Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24-5-1916 tại Phước Lộc, Sơn
Tịnh và mất năm 1946 tại Thu Xà, Tư Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi, con thứ 9
trong một gia đình nho học. Ông nội là Lê Trọng Khanh đổ Cử Nhân thời
Tự Đức thứ 21 (1868) làm quan đến chức Viên Ngoại Lang, Viện Cơ Mật,
ông cáo quan về nhà trước những suy sụp triều đình, Khi Đại thần
Nguyễn Thân đem quân đánh phá phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng,
Nguyễn Thân ép ông làm Tham Biện Sơn Phòng Nghĩa Định, ông đã tuẩn
tiết để khỏi cộng tác với Nguyễn Thân. Cha ông là Lê Quang Dục tham
gia phong trào Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục.
Bích Khê học tiểu học ở Phước Lộc
và Đồng Hới, học trung học tại Huế và ra Hà Nội học Ban Tú Tài.
Năm 1931, 15 tuổi nhờ ảnh hưởng gia
đình Bích Khê làm thơ Đường Luật và Ca Trù. Đăng báo Tiếng Dân (Huế)
và Phụ Nữ Tân Văn được các bậc túc nho ca ngợi.
Năm 1934 Bích Khê cùng chị Ngọc Sương
vào Phan Thiết.
Người anh rể tương lai của Bích Khê,
là Lạc Nhân đang làm Tổng Thư Ký tòa soạn báo Tiếng Dân của cụ
Huỳnh Thúc Kháng, vào Phan Thiết với mối liên hệ lâu đời với nhóm
chủ trương trường Dục Thanh và Công Ty Liên Thành. Lạc Nhân mở trường
Quảng Thuận Nghĩa Thục, Bích Khê cùng dạy nơi này. Chị Ngọc Sương là
người quản lý.
Trường được tín nhiệm học trò đông,
để đáp lại lời yêu cầu của một số học sinh lớn tuổi trường mở thêm lớp học tối do Lạc Nhân
và Bích Khê đảm trách.
Những
người yêu Bích Khê trong thơ mang tên Song Châu trong tập thơ Tinh Huyết.
Là cô học trò nhỏ: “có đôi mắt say sưa,
làn da trắng mịn và dáng điệu mảnh khảnh yêu kiều”. Bích Thủy là người quen biết gặp nhà
người anh cả ở Mũi Né nhưng rồi lại xa nhau khi Bích Khê trở về Qui
Nhơn.
Trong
số những người lớp học tối tại Phan Thiết có nàng Ngọc Kiều. Ngọc
Kiều có gương mặt hiền lành và đôi mắt buồn mơ. Bích Khê và Ngọc
Kiều mến phục nhau và yêu nhau tha thiết. Một đêm trăng rằm Bích Khê
cùng chị đi dạo bãi biển Phan Thiết. Ngồi trên cát trắng Bích Khê
viết mấy vần thơ thổ lộ cùng chị :
Chị
ơi trời sáng màu xanh
Tình
trăng sống dậy trên cành hoa tươi
Nói
ra xin chị chớ cười
Tình
này đẹp lắm hơn mười tình xưa.
Chàng nhờ chị viết thư cho mẹ
vào sắp đặt hôn nhân. Nhưng gia đình Ngọc Kiều lại từ chối vì đã
hứa gả nàng cho con một phú thương, Kết quả ngang trái là Ngọc Kiều
trở nên điên loạn và đòi quyên sinh. Cả gia đình muốn bảo vệ tính
mang con đành mời chị Ngọc Sương đến để ưng thuận. Nhưng việc không
thể ngờ là chính Bích Khê lại từ chối. Điểm chính là lòng tự ái
của thi nhân thà chịu đau khổ cho mối tình dang dở chứ không để danh
dự người con trai bị xem thường. Từ dạo ấy thơ Bích Khê tuôn lai láng
thương khóc cho thân phận mình và Ngọc Kiều, tiếc thay một phần thơ
văn bị thất lạc trong chiến tranh và bị thiêu rụi trong một trận cháy
nhà. Chị Ngọc Sương chỉ còn nhớ một đoạn Bích Khê khuyên Ngọc Kiều
lấy chồng :
Hạnh
phúc ngoài trời nhiều vẻ đẹp
Em
đừng bận bịu ái ân xưa
Lòng
anh chẳng muốn cho em phải
Lẻ
tẻ chân trời bóng nhạn thưa.
Những ngày cuối đời tại Qui Nhơn,
bệnh tình Bích Khê trở nặng, Ngọc Kiều từ Đồng Nai có ra thăm Bích
Khê. Nhìn thân hình tiều tụy, Ngọc Kiều chỉ nói được câu : “Chúng
ta nhớ em là gái có chồng”.
Rồi hai người nhìn nhau mà khóc. Cuộc viếng thăm Ngọc Kiều là
phương thuốc hồi dương lần cuối, nhưng sau đó Bích Khê đóng cửa khóc
cho cuộc tình vĩnh biệt.
Trường
Nghĩa Thuận được hai năm thì bị đóng cửa và và rồi được mở cửa lại đổi tên là
Hồng Đức, lần thứ hai Lạc Nhân cùng vợ bị trục xuất về Nghĩa Bình.
Bích Khê bị bệnh phổi sau khi điều trị trở về sống trên núi Thiên Ấn
Quảng Ngãi và ngược xuôi trên một chiếc thuyền trên sông Sa Kỳ-Trà
Khúc.
Bích
Khê viết hàng trăm bài thơ đường luật, và hai tập thơ mới Tinh Huyết,
Tinh Hoa. Lúc sinh thời Tinh Huyết được Hoàng Trọng Miên một người bạn
xuất bản tại Hà Nội năm 1939. Và năm 1988 Sở Thông Tin Văn Hoá Nghĩa Bình xuất bản do Chế Lan Viên sưu
tầm và tuyển chọn.
Lúc
bấy giờ phong trào Thơ Mới phát khởi, Thơ Cũ vẫn còn được nhiều
người ưa thích. Bích Khê có khá nhiều bạn tri âm, hầu hết là độc
giả Tiếng Dân và Phụ Nữ Tân Văn.
Bích
Khê làm thơ Đường Luật dễ dàng và cũng rất thích các thể lục bát,
song thất lục bát, ca trù. Bước vào Thơ Mới, Bích Khê đọc thơ Pháp
và tìm đủ mọi cách để sáng tạo thi ca. Nhưng thơ bán không ai mua, thơ
chỉ là cái nghiệp chứ không phải là nghề, “Đã mang lấy nghiệp vào
thân” người thơ phải gian nan đau khổ vì thơ.
Học
hết Cao đẳng tiểu học Bích Khê ra Hà Nội học Ban Tú Tài năm
1932-1933. Bích Khê biết tiếng Hàn
Mặc Tử, nhưng biết tiếng thôi. Tập Gái Quê của Hàn Mạc Tử làm Bích
Khê bất mãn:
- “Chỉ hai bài đáng gọi là thơ là
Tình Quê và Bẽn Lẽn. Còn bao nhiêu nên phó cho Thần Chúc Đăng.”
Năm
1935 Mộng Cầm có đưa Hàn Mặc Tử đến thăm Bích Khê, cũng chỉ thăm xã
giao qua loa mà thôi.
Năm
1937 lúc Bích Khê ở Phan Thiết, Mộng Cầm đưa cho cậu xem những bài Thơ
Mới của Hàn Mặc Tử sáng tác sau Gái Quê thì Khê than :
- Hàn Mặc Tử là một thiên tài và đi
trước ta xa quá. Từ đấy Bích Khê mới bắt đầu giao thiệp Hàn Mặc Tử
bằng thư từ. Trước kia hai người chỉ đọc thơ nhau trên báo Tiếng Dân
và Phụ Nữ Tân Văn. Cả hai cùng được các cụ túc nho yêu mến, nhưng họ
không ưa nhau. Từ đó tình bạn giữa Hàn Mặc Tử và Bích Khê càng thắm
thiết.
Năm 1938 Bích Khê gửi cho Hàn Mặc Tử
nhiều bài thơ và bị gửi trả lại với lời lẽ kiêu khích, mỉa mai cốt
làm chàng tức. Bích Khê xé nát tập thơ đó và thề : “Trong 6 tháng
ta sẽ trở nên thi sĩ phi thường, bằng không sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến
chuyện làm thi sĩ nữa”. Ngờ đâu sự hằn học của chàng đã bật
nẩy thiên tài, chỉ trong vòng 3 tháng chàng viết được tập thơ bằng
máu huyết tinh túy và châu lệ. Bích Khê say sưa đắm đuối với tâm hồn
thơ.
Sau khi đóng cửa trường học tại Phan
Thiết, Bích Khê đến Quy Nhơn thăm Hàn Mặc Tử và ở lại chơi vài ngày.
Hàn Mặc Tử đọc tập thơ và viết tựa cho Tinh Huyết. Cuối năm 1939,
tập thơ Tinh Huyết do Hàn Mặc Tử đề tựa đã gây nên một tiếng vang
trong dư luận.
HÀN
MẶC TỬ
TỰA
TẬP TINH HUYẾT
Ở
Sọ người cũng như ở Tranh lõa thể sự trần truồng dâm
đãng đã nhường lại cho ý vị nên thơ, của hương, của nhạc, của trăng,
của tuyết. Quả nhiên là một sự không khen thanh tao quá đến ngọt lịm
cả người cả thơ :
Dáng
lầm xuân uốn trong tranh Tố nữ
Ô
tiên nương, nàng lại ngự nơi nầy ?
Nàng
ở mô ? Xiêm áo bỏ đâu đây
Đến
triển lãm cả tấm thân kiều diễm ?
Nàng
là tuyết, hay da nàng tuyết điểm
Nàng
là hương, hay nhan sắc lên hương ?
Mắt
người châu rung ánh sóng nghê thường
Lệ
tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm
u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài
chút trăng say đọng ở làn môi.
Trực giác của thi sĩ mạnh quá đến
nỗi thấy nhan sắc lên hương, thấy cả sóng nghê thường đang nao nao gợn,
và so sánh hai hàng nước mắt trong trắng của nàng là hai chiếc đũa
ngọc. Và thấy mái tóc u huyền xinh như mùa thu mươn mướt, thi nhân bảo
đấy là đêm đang ngủ mơ.
Nếu
chẳng phải là một nghệ thuật siêu thần, thi nhân làm sao đưa đến một
nguồn sống phong tình mà thanh khiết cho giai nhân ? Để có cái ma lực
huyền diệu cám dỗ được ngũ quan của người trần…
Sự
say mê, tìm kiếm những nguồn hoa lạc vô biên đã dần dần đẩy thi nhân
vào bờ bến của huyền diệu. Ở đấy, sự mường tượng của thi nhân lại
dồi dào hơn nữa, người ta chỉ gặp âm thanh đương ngả ngớn.. và muôn
thứ xạ hương bay lẳng lơ trong lồng nhạc, trong khi có hằng hà sa số
là ánh hào quang va vào hồn hoa, chạm nhầm không khí lạ. Không có sự
say đắm nào ở phương xa, hay sự mong nhớ nào cách biệt mà không đến
đây để sum vầy, gây nên cảnh tượng đoàn viên của một mùa thơ, mùa
trăng bát ngát.
Ở
địa hạt Huyền Diệu, ta thấy thi nhân chú trọng về âm thanh và màu
sắc. Trong khiêu nói đến nhạc, thi nhân nghĩ đến ngay những cung cầm
chơi vơi, âm điệu rung động cả không gian. Vì bởi mê man đến sự “nhẹ
nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương”, thi nhân đã sáng tạo được rất
nhiều bản ca thần tình diễm ảo. Và nhạc lúc bấy giờ cũng không còn
là nhạc nữa. Nó đã bay ra hương, ra hoa, ra thơm, ra mát, ra ngọt, ra
ngào. Ra gì mê tơi run rẩy hay âm thầm nức nở, lanh lảnh như giọng
cười, mơn man như ân tình đòi hỏi :
..Tôi
qua tim nàng vay du dương,
Tôi
mang lên lầu lên cung Thương
Tôi
không bao giờ thôi yêu nàng
Tình
lang tôi nghe như tình lang.
Buồn
lưu cây đào xin hơi xuân
Buồn
sang cây tùng thăm đông quân
Ô
hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng
rơi ! Vàng rơi ! Thu mênh mông!
Đây
cả một trời yêu thương da diết, một trời tương tư, một trời âm hưởng
buồn não buồn nê :
Vàng
rơi ! Vàng rơi !Thu mênh mông!
Thi
nhân kéo ta đi lướt thướt trong cõi u hoài, đằm thắm từ những bản
đàn xôn xao hồi hộp như Tỳ Bà, Mộng Cầm Ca, Hoàng Hoa, sang qua một
thế giới hào quang, gây cho ta một nhạc điệu hiền hậu và ngọt ngào
vô cùng đến tê cả lưỡi và hàm răng :
Ôi
nắng vàng thơm rung rinh điệu ngọc
Những
cánh hồng đơm, những cánh hồng đơm
Nhẹ
nhàng, nhịp nhàng thở đều trong sương.
Màu
trăng không gian như gờn gợn sóng
Từ
ở phương mô nhạn mang thơ về.
Đàn
thơ cơ hồ lên cung âm điệu
Đây
giây trinh bạch khóc nức trong mơ.
Đây
hồn ngọc thạch xanh xao như tờ
Ô
! côi lầu mấy ánh gì kim cương
Áo
nàng thơ ngây nao nao nghê thường.
Thơ
bay, thơ bay vô bàn tay ngà,
Thơ
ngà ngà say, thơ ngà ngà say
Nàng
ơi, đừng động có nhạc trong giây
Nhạc
gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây
Nhạc
lên cung hường, nhac vô đào động
Ô
nàng tiên nương – hớp nhạc đầy hương.
Đấy là một lối sáng tạo, bỏ vần
chữ thứ tư (vần giữa) ta đọc đến những câu :
…
Nhẹ nhàng nhịp nhàng thở đều trong sương
…
Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ
…
Thơ ngà ngà say, thơ ngà ngà say
…
Ô nàng tiên nương - hớp nhạc đầy hương
Phải chăng ta thấy sóng âm thanh xao
gợn, nổi trôi, lên xuống như muôn hoa trong gió lùa.
Lời thơ rất thanh, ngạt ngào những
tình ý say sưa, mát mẻ, phổi ta, tim ta, hồn ta, nở nang ra, háo hức
một mối lương duyên kỳ ngộ.
Tác
giả khéo dừng hơn (césure) và hạ vận ở chữ thứ tư, làm cho câu thơ
nửa như riêng tây, nửa như thuận hòa…
Chưa
hết đâu, thi sĩ Bích Khê vốn là tay sành âm nhạc, đã nghe những bản
đàn Tây như valse, menâtes, sérénate, marche… đã từng lĩnh hội và
thiệp liệp đến thể cách văn thơ Thái tây, nên am hiểu một cách thông
minh những lối sáng kiến từ điệu…
Và
đây là một đoạn thơ, phảng phất như âm điệu bài “Réversibilité” và
“Harmonie du soir” của Beaudelaire hay bài “Féerie” của Valéry :
Trăng
gây vàng, vàng gây lên sắc trăng
Của
gương hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân
nhịp nhàng, lòng nghe hương nàng nặng
Đây
bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Trăng
gây vàng, vàng gây lên sắc trăng
Của
hồn thu đi lạc ở trong mơ.
Âm thanh là một nửa tinh thần, anh hoa
của thế giới Huyền Diệu. Còn một nửa khác phải là màu sắc phương
phi của khí thiêng hun đúc, rạng rỡ cả một trời lưu ly, mã não, trân
châu. Hình như đã lâu lắm, chàng thi nhân có cái ý niệm bao quát, tân
kỳ, đem mình ví với một hiện tượng luôn luôn ấp ủ những khói mây
huyền ảo.
Màu
sắc như ta đã thấy trong các thi phẩm đông tây đều gồm có hai tính
cách :
- Màu sắc cụ tượng
- Màu sắc trừu tượng.
Màu
sắc cụ tượng thì lộ nguyên hình bằng bản chất của nó, như gấm, như
hoa, mà ta rờ được, nắm được với đôi tay (palpable), còn màu sắc trừu
tượng là thứ gì nửa thực, nửa hư, nghe, thấy, biết mà không làm chủ
được nó, ví dụ : ánh sángm hương thơm, nhạc vui, không gian, thanh khí…
Màu
sắc cụ tượng rất dễ tim, dễ kiếm, trái lại màu sắc trừu tượng rất
khó sáng tạo, vì đây là cái đẹp của thơ, và phải có con mặt của
thi nhân, của một kẻ siêu phàm, thoát tục mới nhận thấy hết cái đẹp
thiêng liêng, phép tắc ấy, và mới thấu triệt hết tinh hoa của nó.
Với màu sắc trừu tượng, thi nhân có cái công phu làm cho trở nên cụ
tượng ? nghĩa là có thể nắm được
một nạm hào quang, lùa một không gian vào vạt áo, dồn kinh cầu nguyện
về phương Nam, cho hai tiếng sáo đuổi nhau là là… Bắt cái vô hình trở
nên hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật. Câm không còn là
câm nữa.
Đấy
là tất cả nghệ thuật và trí tưởng tượng phi thường của thi nhân,
nếu thi nhân là một thiên tài ! Bích Khê đã tỏ cho chúng ta thấy
chàng xứng đáng với hai chữ thiên tài ấy :
Ôi
cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm !
Một
bàn chân ve vuốt một bàn chân
Mát
làm sao, mát rợn cả châu thân
Máu
ứ lại máu dồn lên giữa ngực
Ôi
! Thớ thịt có đàn lên cung bực.
Bằng
những chữ cụ tượng như cặp mắt, bàn chân, châu thân, ngực, thớ thịt,
rất tầm thường không gợi cho ta được một sự rung động tân kỳ nào cả,
mà thi sĩ đã khéo đưa cho chúng một nguồn cảm giác tinh thần khiến
đôi mắt ngời lên ánh kiếm, bàn chân được ve vuốt, châu
thân mát rợn lên và thớ thịt có đàn lên cung bực.
Và
đây là những màu sắc mầu nhiệm mà trí người thường không tạo được :
Lầu
ai ánh gì như lưu ly ?
Nụ
cười ai trắng như hoa lê ?
Thủy
tinh ai để lòng gương hồ ?
Không
gian xa cừ hay san hô ?
Khi
Hàn Mặc Tử còn sống tác phẩm của ông đã được xuất bản có: Gái
quê. Tân Dân Hà Nội 1936 tựa của Phạm Văn Ký. Thơ Hàn Mạc Tử . Đông
Phương Hà Nội 1942 tranh vẽ của Phạm Tú.
Một
số lớn thi ca Hàn Mặc Tử được Quách Tấn gìn giữ, sao nhiều bản gửi
Bộ Giáo dục Nam Triều thời đó và nhiều bạn bè, nhưng chiến tranh đã
làm thất lạc nhiều tài liệu.
Hàn
Mặc Tử nhuốm bệnh từ năm 1936, 24 tuổi khi tinh hoa đang phát tiết;
“Khi biết mình mang bệnh hiểm nghèo, Tử hết sức đau đớn, đau đớn đến
phát điên. Thường ngày những cơn thác loạn nổi dậy, khi nhiều khi ít.
Những ngày rồi ngày, nỗi đau khổ hết phát hiện ra ngoài một cách
bồng bột, thì lại ăn sâu vào tâm hồn và ngấm ngầm nung nấu nạn nhân,
nung nấu đến tột độ. Hàn Mạc Tử nhiều lần mô tả những đau đớn : “Thịt
da tôi sượng sần và tê điếng. Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên.”
Bên
cạnh những hành hạ của bệnh trạng Hàn Mặc Tử còn sống trong cảnh
nghèo túng và tuyệt vọng vì tình. Trong thư gửi Trần Thanh Mại ông
viết: “Hiện nay Trí về tạm ở nhà. Cái nguyên nhân là không tiền
uống thuốc”. “Bữa nay Trí xuống nhà bà thầy thuốc rồi. Có một mái
nhà nắng dọi nhiều quá. Cả chiều nếu ở trong nhà thì phải đội
mũ”.
Thời
ấy chưa tìm ra vi trùng Hassen của bệnh phong cùi, phương thuốc Bắc
của người Việt thời ấy chỉ là làm mát, trục xuất những đau nhức,
phong hàn. Người có tiền thì mài vàng mà uống, phương thuốc ấy lại
càng chết mau lẹ hơn.
Bệnh
phong cùi do vi khuẩn Hansen (Mycobacterium Leprae) gây ra, da nổi dát da
trắng, đỏ và tổn thương các dây thần kinh gây một cảm giác tê liệt ở
tay chân. Nếu không được điều trị đúng cách biến chứng nghiêm trọng
sẽ xãy ra gây biến dạng cơ thể, tàn tật. Bệnh phong cùi làm liệt tay
chân, loét lòng bàn chân, co rụt biến dạng ngón tay ngón chân do tiêu
xương, mắt hở không nhắm lại được..Bệnh lây truyền qua đường hô hắp,
mỗi ngày người bệnh phóng ra 100 triệu vi khuẩn Hansen. Bệnh phong cùi
xuất hiện từ 600 năm trước công nguyên, thời đó người ta giam người
cùi trong các thung lũng riêng. Ngày nay phong cùi còn hoành hành trong
các quốc gia nhiệt đới và cận nhiệt đới. Biết được bệnh trạng bệnh
phong cùi ta biết được sự đau khổ của Hàn Mặc Tử mỗi ngày. Nếu Hàn
Mặc Tử không chữa bằng các phương thuốc Bắc mà đến chữa tại bệnh
viện phong cùi Quy Hòa, có lẽ Hàn Mặc Tử sẽ sống lâu hơn.
Việc
Hàn Mặc Tử cho rằng, ông bị phong cùi khi cùng Mộng Cầm đi qua một
khu mộ mới trên đồi Lầu Ông Hoàng, bà Mộng Cầm trả lời tại sao Hàn
Mặc Tử bị mà bà không bị bệnh.
Trong
nỗi khốn khổ ấy Hàn Mặc Tử tìm an ủi trong nguồn đạo, nhà thơ kể
lại một ngày của mình: “Lại đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ,
lại nhớ, lại nằm. Buổi tối khi ăn xong, cũng vừa đi bách bộ vừa ngâm
thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày chỉ ngâm thơ và đọc kinh
là nhiều hơn cả. Ngày nào cũng như ngày ấy, không thấy buồn lắm, và
ngày nào cũng mong mỏi một cái gì.”(Trần Thanh Mại tr 120).
Chứng
bệnh phong cùi hiểm nghèo đã đem đến cho Hàn Mặc Tử nhiều thi tứ cao
siêu, thanh thoát, như một vùng trú ẩn cần thiết cho cõi linh hồn đau
khổ triền miên, khi căn bệnh hành hạ.
Theo thư một người bạn thân kể lại: “Hai
mắt nằm lọt vào hai lỗ hũm sâu hoắm, đến không còn mở ra được. Thân
hình chỉ còn da bọc lấy xương, chân tay thì co rút lại mà tóc bù
rối trết lại từng về trong ấy nhô nhúc những chí là chí” (thư
ông NV Xê đề tại Quy Hoà ngày 25-6-1941) bệnh phong cùi thuở ấy chưa
có thuốc chữa, những ngón tay chân rụng dần, không có gì thê thảm
bằng hình ảnh băng hoại đó nhưng Hàn Mặc Tử can đảm chịu đựng, vui
vẻ chịu đựng là khác: “Tuy cực khổ thế mà tôi vẫn an vui, ngày
nào cũng có cười cả. Nếu không cười với ai thì cười một mình, xem
như thú vị không biết mấy”
(Trần Thanh Mại sđd tr 121). Tại trại hủi Qui Hòa, tỉnh Qui Nhơn,
Hàn Mặc Tử trút linh hồn ngày 11 tháng 11 năm 1940, hưởng dương 28
tuổi. Cái chết yểu của ông là một thiệt thòi lớn cho nền văn học
đất nước, vì ông được coi như một nguồn thơ tinh khôi kỳ lạ bậc nhất
trong thi sử Việt Nam hiện đại. Mộ ông ngày nay ở Gềnh Ráng Qui Nhơn.
Và
Bích Khê có một bài thơ viết về Hàn Mặc Tử
HÀN MẶC TỬ
Bóng
nào nhợt như ma
Khắp
châu thân hổn hển
Huyền
hồ nhìn không ra
Lưu
luyến đường thiết tha
Chờm
chờm trên giường bệnh ?
Bóng
nào nhợt như ma
Khắp
châu thân thấp thểnh
Huyền
hồ nhìn không ra ?
Hay
là tôi hóa hai
Đã
chết đi một nửa
Hay
là trời ban mai
Bị
mù sương vây bủa
Làm
buồng ngập hoàng hôn
Ảnh
hưởng tới linh hồn
Tiều
tụy :
Hiện
ra hình ủy mị ?
Bóng
nào trắng dần ra,
Trên
đầu đơm vòng hoa
Khắp
thân in màu tuyết
Trong
trẻo và diễm tuyệt
Tơ
tơ gần như nguyệt
Biếc
biếc gần như thu
Đều
qui trên nét mặt
Hoàng
hôn phai mờ sắc
Buồng
ban mai trắng ra
Ôi,
ôi không là ma
Đừng
nhìn trong ý tứ
Quạnh
quẽ nhận không ra
Gần
rồi không còn xa :
Hàn
Mặc Tử !
Châu
lệ thắm tình say
Gặp
gỡ có hôm nay
Chiêm
bao ngày liền ngay
Ngoài
mình ai mà hay ?
“Anh
ơi từ đ̣âu đến ?
Em
buồn em đang bệnh
Anh
ơi sao ra hai
Huyền
hồ trong phôi thai ?
Hóa
thân trong phương phi
Người
em rày mệt quá
Mà
nay gặp cố tri
Hai
tay đây rả rả ?
Dìu
lấy cùng nhau đi,”
Nức
nở ra hơi hương
Dìu
dịu tỏa trong buồng
“Anh
ơi tôi mới đến
Là
hiện thân của bệnh
Quằn
quại đau xót xa
Máu
mủ nhìn không ra
Giờ
phương phi ! Phương phi !
Là
hình thơ tinh vi
Là
hình thơ qui y
Mướt
trong màu tuyết vẽ
Hai
ta đều quạnh quẽ
Đứt
ruột thương nhớ nhau
Nấn
ná sẽ lìa nhau
Chiêm
bao còn thấy nhau,”
Rùng
mình ta nhìn ra
Huyền
hồ đà như ma
Ôi
không phải là ma
Gần
sao mà còn xa
Lại
đâu là quê nhà
Hàn
Mặc Tử ! Hàn Mặc Tử !
Qui
Hòa ! Qui Hòa !
BÍCH
KHÊ
MỘNG CẦM (1917-2007)
Mộng
Cầm tên thật là Huỳnh Thị Nghệ sinh
ngày 17-7-1917, và mất ngày 27-7-2007 tại Phan Thiết thọ 91 tuổi.
Nguyên quán tại Đức Phổ, Quảng Ngãi cha bà ra làm việc tại Nghệ An
và sinh bà tại đó. Bà Mộng Cầm là cháu gọi Bích Khê bằng cậu, bà
được gửi về nhà trọ người thân ở Phan Thiết học lớp Pleine Exercice. Huỳnh Thị Nghệ đọc thơ cậu Bích Khê,
trong tập Tinh Huyết có bài thơ Mộng Cầm Ca, thích quá nên lấy bút
hiệu là Mộng Cầm, Mộng Cầm cũng làm thơ và gửi đăng trên báo Trong
Thư Phòng do Hàn Mặc Tử phụ trách. Bài Mộng Cầm Ca có nhắc tên Ngọc
Kiều, một cô gái Phan Thiết học trò trường Quảng Thuận, Bích Khê dạy
học. Bài Muôn năm sầu thảm Hàn Mặc Tử có nhắc tên bà : “Nghệ hỡi
Nghệ muôn năm sầu thảm”, nhiều ấn bản sửa thành “Nàng hỡi
nàng muôn năm sầu thảm.”
MỘNG CẦM CA
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa
Nhựa đương lên : sức mạnh của lòng
thương
Mùi tô hợp quyện trong tơ trăng lụa.
Đây dạ lan hương, đây đỉnh trầm hương
Đây bát ngát và thơm như sữa lúa
Hồn xạ hương phơ phất ở trong sương.
Không gian tơ – không gian tơ gợn sóng
Âm thanh gì sắp sửa.. Ngọc Kiều ơi !
Hay hơi thở của hoa hồng mơ mộng
Hay buồn đêm rào rạt – ứ muôn nơi ?
Không gian tơ – Không gian tơ gợn sóng
Ngọc Kiều ơi ! Hồn đến bến xa khơi !
Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt
Ngọc Kiều ơi, nầy khúc Lạc Mai Hoa
Suối tóc mát, nhúng trong vùng mộng
tuyết.
Ta đê mê, ta gảy điệu Tỳ Bà
Níu cho ta, cho ta muôn yến nguyệt
Còn đây em, này khúc Mộng Cầm Ca.
……………
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân nhịp nhàng lòng nghe hương nằng
nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Trăng gây vàng, vàng gây nên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ..
Người cho ta một thanh gươm rất sắc
Ồ vung lên.. cắt mạch nguyệt vàng
xanh
Xẻ mạch trời – mây xô sao răng rắc
Phanh mạch đêm, hương vỡ, ứa ngầm tinh
!
Người cho ta một thanh gươm rất sắc
Ta điên rồ .. múa giữa áng bình minh.
BÍCH KHÊ (1916-1946)
Hàn
Mặc Tử thường từ Sài Gòn đáp chuyến tàu suốt ra thăm Bích Khê và
Mộng Cầm, Mộng Cầm được Bích Khê cho ra dạy lớp vỡ lòng tại trường
Quảng Thuận sau đổi tên là trường Hồng Đức, do đó thứ bảy nào Hàn
Mặc Tử cũng có mặt tại Phan Thiết, và chiều chủ nhật lại vào Sài
Gòn. Trong một dịp đi chơi Lầu Ông Hoàng chàng thổ lộ tâm tình cùng
Mộng Cầm. Sau khi Hàn Mặc Tử qua đời năm 1942, Mộng Cầm lập gia đình
cùng nhà hóa học Hồ Lộng Địch, bà có 7 người con.
Theo
bài viết của người chị Lê Ngọc Sương trong tập thơ Bích Khê. Bích Khê
không chỉ sáng tác tìm kiếm những nguồn thơ Tây Phương Beaudelaire,
Edgar Poe, Valéry.. để cách tân thơ Mới mà còn dịch thuật. Ông dịch
cả quyển Retour de L ́ U.R.S.S của André Gide. André Gide là một văn
hào cận đại nước Pháp, đảng viên đảng Cộng Sản Pháp, ông có danh dự
là một trong những người đầu tiên được mời sang Liên Xô thời Stalin.
Trở về ông viết quyển này về những điều mắt thấy tai nghe. Không ai
tin điều ông viết, ông rời đảng. Việc Bích Khê dịch André Gide cho ta
thấy Bích Khê không chỉ sống khép kín trong thi ca, mà còn thông hiểu
những biến chuyển sâu xa của thế giới, ánh hào quang việc xây dựng
một thiên đường trần thế bằng việc tiêu diệt các thế lực phản động,
không làm Bích Khê lóa mắt. Sách dịch của Bích Khê chưa hề được in
ra, nhưng đồn đại đã có những lời kết án Bích Khê. Bích Khê đã mất
trước khi những tai họa có thể sẽ xãy ra cho chàng.
Hai
nhà thơ đoãn mệnh, một người tay chân tê liệt, ngón tay chân tiêu dần
mơ thoát xác thành chim phượng hoàng bay các cõi trời. Một người mữa
ra máu thành Tinh Huyết. Họ làm thơ cho quên đớn đau thân thể, sầu
muộn những mối tình dỡ dang không thể thành như mọi người trên trần
thế. Họ nôn ra chữ, mửa ra thơ, những bài thơ lạ lùng, không phải là
tiếng kèn vận động ra trận xung phong, đấu tranh, thơ ca tụng chiến
công, thơ ca tụng vĩ nhân, ca tụng sản xuất, ca tụng trăng hoa tuyết
nguyệt, ca tụng thiên nhiên, nhân loại.. Từ đau đớn, đau khổ cùng cực
họ khao khát yêu thương, những yêu thương tầm thường trong cuộc sống
mỗi ngày mà họ không thể có. Đọc thơ họ ta biết quý trọng hơn những
gì ta đang có và quý trọng hơn tình yêu con người.
Paris 16-11-2023
NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH
(Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học
Paris Sorbonne)
THƯ MỤC THAM KHẢO
THƠ BÍCH KHÊ. Sở Thông Tin Văn Hóa Nghĩa
Bình . 1988
THƠ HÀN MẶC TỬ. Tân Việt Sài Gòn
1959. Sống Mới Sài Gòn, tái bản
tại Hoa Kỳ
ĐẶNG TIẾN. Vũ trụ thơ. Hàn Mạc Tử
tr 79-128
TRẦN THANH MẠI . HÀN MẶC TỬ Tân Việt
tái bản Sài Gòn 1957.
VŨ NGỌC PHAN Nhà Văn Hiện Đại III,
1942
HOÀi THANH và HOÀI CHÂN. Thi Nhân Việt Nam, Thiều Quang
tái bản Sài gòn, 1967, tr 204
VĂN Số đặc biệt Hàn Mặc Tử, 73-74
trích => .....Bài Đây Thôn Vỹ Dạ nhắc đến “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, người Hàn Mặc Tử thầm yêu trộm nhớ khi học ở Huế là Hoàng Cúc, Hoàng thị Kim Cúc về sau trở thành một nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào Phật Giáo miền Trung và tổ chức Gia Đình Phật Tử. Hoàng thị Kim Cúc có viết sách dạy nấu các món ăn chay. Tình yêu Hàn Mặc Tử không được đáp lại có lẽ vì lý do tôn giáo hai gia đình.
ReplyDelete-------------------------------------------------------------------
STD_SOG
Lúc này HMT đã đến thời kỳ thứ 2, nên đến Thôn Vỹ Dạ chỉ zám đứng bên khóm Trúc; che khuôn mặt 'lở loét' để nhìn lén người Tình mà thôi! Khi vào thời kỳ thứ 3 thì được đưa đến khu điều trị Quy Nhơn, ban ngày 0 zám nhìn ai vì toàn thân đã lỡ loét. Cho nên ban đêm 0 có ai mới lú mặt ra, vì vậy mới có bài ca: Ai mua Trăng tôi bán Trăng cho {để than thở cho số kiếp hẩm hiu của mình! Zo sống ở Quảng Bình và đi nhiều nơi tới các vùng miền Trung; thời jan này đã vướng bịnh "fong cùi" với các cô gái jang hồ}.
Cũng như con gái chú Hỏa ở SG, một trong những người tình của ông ta; đã mắc bịnh "fong cùi" và lây cho con gái. Nhưng vì giàu có nên chú Hỏa, 0 đem con vào trại Fong mà nhốt riêng trong biệt thự của mình. Nên có sự lan truyền là biệt thự có con Ma rất khủng khiếp {đó chính là con chú Hỏa}!
T/2: Bà Mai chân đất (KL) khi về Vn có đến thăm mộ Hà Mặc Tử, vì bà ta cũng thuộc loại 'Chung Vô Diệm'. Nên đồng bệnh tương lân! {nhờ sau này sống ở Hải ngoại có nhiều Thẩm Mỹ Viện}.